Tản
văn của Hồ Ngọc Vinh
Từ rất xa
xưa, Giếng làng là nơi cung cấp
nước ăn, nước uống cho cộng đồng cư dân làng, xã. Hàng ngày, hàng
tuần, hàng tháng, mọi người với đôi thùng tôn kĩu kịt đến giếng lấy
nước về đổ vào chum, vại dự trữ nước sinh hoạt. Có gia đình đóng
nước vào thùng chất lên xe bò chở nước về nhà. Một số nơi người ta
lấy nước giếng làng để tế lễ. Những hoạt động ấy đặc trưng cho đời sống của cư dân địa phương.
Giếng làng
thường được xây dựng cạnh đình làng, bên sân đình. Có giếng hình
vuông, có giếng hình bán nguyệt nhưng chủ yếu hình tròn…Người ta xây
quây xung quanh giếng, bậc giếng bằng gạch chỉ. Giếng làng cùng với
cây đa, sân và đình làng là quần thể kiến trúc đặc trưng cho văn hóa làng xã.
Biết bao đôi
trai gái hẹn hò tình tự nên duyên đôi lứa bên cạnh giếng làng. Thời
kháng chiến chống Mĩ, trên sân đình, bên cạnh giếng làng, vào những
đợt tuyển quân, nam nữ thanh niên tập trung với khí thế hừng hực lên
đường tòng quân chiến đấu.
Trong ký ức
của mỗi người, hình ảnh giếng làng với những kỷ niệm tuổi thơ cắp
sách tới trường như những dấu ấn mạnh mẽ hun đúc tình yêu cuộc
sống, yêu quê hương đất nước.
Tôi còn nhớ
ngày thơ bé, giếng làng bốn mùa nước trong vắt có thể nhìn thấy
đáy nước những đám mây trắng lững lờ trôi, những con cá rô bơi lội
lượn lờ bên thân cây cỏ. Những bông hoa súng lấp ló trên mặt nước
trong, có bông nở đỏ. Màu hoa súng đỏ tươi, những cánh hoa súng xòe
ra thắm rực rỡ trong nắng.
Giếng làng
được mọi người gìn giữ, để có nguồn nước sạch, tình cảm đẹp giữa
con người với con người. Thậm chí có nơi, giếng làng gắn liền với
những truyền thuyết về thành Hoàng làng mang tính tâm linh. Bởi vậy
con người không chỉ trân quý nguồn nước sạch để duy trì sự sống mà
còn là ý thức trân trọng mạch nguồn của đời sống tâm linh, hồn
người, hồn quê.
Trải qua bao
đời nay vì thế giếng làng vẫn còn
đó sống cùng với đời sống tình cảm văn hóa của cư dân làng xã.
Giếng làng được coi là di sản văn hóa vật thể , văn hóa tinh thần của dân tộc.
Tất nhiên
cùng với sự phát triển kinh tế và văn hóa, khi con người có giếng thơi “ loại giếng được đào,
cuốn bằng gạch đỏ” ở mỗi gia
đình, có bể nước mưa, có nhà máy nước cung cấp nguồn nước
sạch, thì giếng làng mất đi vai trò
cơ bản của nó là cung cấp nước sạch. Nhưng một số địa phương vẫn tôn tạo
giếng đảm bảo cảnh quan nên thơ của văn hóa làng “đình làng, sân đình và giếng làng.”
Song thật đáng tiếc khi con người không biết
gìn giữ cảnh quan môi trường văn hóa. Ao làng, giếng làng không chỉ
bị lấp đi, có nơi bị ô nhiễm nặng
nề bởi rác thải. Người ta vô tư xả chất cặn bã chăn nuôi ra rãnh,
vứt rác thải ra rãnh. Rãnh nước sền sệt đen ngòm, bốc mùi hôi thối.
Giếng làng bị những gia đình sống
gần đó xâm lấn, diện tích còn lại chừng chục mét vuông đầy những
cỏ dại, lẫn túi nhựa đựng đầy rác.
Nước giếng
không còn trong vắt nên thơ như ngày xưa thay vào đó là màu đen đục,
đến cua cá cũng không thể sống nổi.
Làm gì để
gìn giữ môi trường xanh, sạch đẹp? Nhiệm vụ trước tiên là của các
nhà quản lý, lãnh đạo địa phương trong việc tổ chức xây dựng nề nếp
văn hóa làng xã, xây dựng hương ước. Bảo vệ môi trường phải được coi
là một nguyên tắc sống của con người, đặc biệt trong thời kỳ
công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất
nước.
Ý thức về
bảo vệ môi trường, môi sinh , nếp sống văn hóa một phần được định hình bởi các nguyên tắc quy định trong hương
ước, những chế tài đối với hành vi xâm hại môi trường, còn thông qua
các biện pháp giáo dục của các đoàn thể, của gia đình đối với mỗi
con người.
Có nhà văn
hóa nói mất bản sắc văn hóa là mất dân tộc. Ý thức bảo vệ môi
trường văn hóa phải được chuyển hóa thành hành vi sống thân thiện
với môi trường gìn giữ và phát triển văn hóa vật thể, văn hóa tinh
thần của dân tộc. Không thể có phát triển nếu không có nguồn cội.
Môi trường,
văn hóa làng xã với giếng làng, cây đa, sân đình đã trở thành tài
sản chung của mọi người. Hãy gìn giữ nó để đảm bảo cho sự phát
triển kinh tế, văn hóa của cộng đồng.
Hưng
Yên tháng…năm 2016
Hồ
Ngọc Vinh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét