Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

LỜI NGUYỀN



Truyện ngắn của Hồ Ngọc Vinh ( truyện ngắn này mới được sửa lại)
Không biết tự bao giờ, làng Thượng Cát truyền lại từ đời này sang đời khác lời nguyền. Tôi tạm gọi đó là lời nguyền tình yêu. Trai gái làng Thượng cát cấm kị lấy trai gái làng Hạ. Nếu họ lấy nhau, vợ chồng sẽ như đũa gãy đôi, gia đình ly tán, con cháu bại hoại.
Ông Bổn vốn là nghệ nhân dân gian Trống quân kể với tôi rằng. Sở dĩ có lời nguyền đó là vì tranh chấp đất đai giữa hai làng ở mạn đồng sông xuôi. Thời gian phong kiến trước đây, dân hai làng với mã tấu, giáo mác gậy gộc nhiều lần xô xát. Tham gia vào ẩu đả có thanh niên, thiếu niên, dân binh, thậm chí cả các cụ già. Những trận chiến đất đai như vậy, thậm chí dẫn đến đổ mảu, chết người, song căn nguyên vẫn không được giải quyết triệt để. Làng Thượng Cát cho rằng làng Hạ đã lấy mất vài Hec ta ruộng của họ. Làng Hạ cho rằng yêu sách của Thượng Cát chẳng có cơ sở nào. Vùng đất tranh chấp ấy, khó có thể canh tác vì có trồng cây cũng bị phá nát.
Bên cạnh đó, làng Hạ còn có tục giữ gái làng. Trai làng khác đến tán tỉnh gái làng Hạ không khéo bị đánh sứt  đầu, mẻ trán.
*
Tôi ngồi ở hàng ghế đầu phía trái rạp. Cạnh tôi là Vượng. Phía trước mặt là sân khấu dựng tạm. Mặt sàn được ghép bởi những tấm gỗ mỏng, phủ thảm xanh. Trên mặt phông hậu của rạp nổi bật hàng tít: “ Lễ đón nhận bằng công nhận làng văn hóa  Thượng  Cát.”
Lúc này trên sân khấu, gần hai chục phụ nữ độ tuổi 30- 40 trong trang phục áo mớ ba màu vàng đang xòe những cánh quạt nhịp nhàng theo nhịp điệu chèo. Lời  của bài hát: hát mừng quê ta nay đổi mới…i…i…a. Là hát mừng quê ta nay đã đổi mới.. Hỡi chị em ơi! Ta mừng là…
Vượng quay sang nói với tôi: Đây là tiết mục tự biên, tự diễn  của đội văn nghệ của làng.
Nhìn những đôi chân hôm qua hôm kia còn lấm bùn, nay chưa hết vụng về trong nhịp trống, trong tiếng nhạc, bất giác tôi nhớ lại lời bố tôi kể: “ Ngày trước, mẹ con  hát chèo hay lắm. Bố yêu mẹ cũng bởi  say mê giọng hát chèo  của mẹ”.
Lần theo những câu chuyện của nghệ nhân Bổn và chuyện của bố, tôi viết truyện ngắn này
*
Dòng  dõi ông Tân vốn làm nghề đi thuyền. Thuyền vận tải chứ không phải thuyền chài.  Nghề đi thuyền nay đây mai đó, sông nước và con thuyền là nhà. Gia đình mấy thế hệ sống trên  thuyền lênh đênh ở khúc sông nọ tới khúc sông kia, đời này, sang đời khác vẫn vậy. Đến đời ông Tân, theo chính sách mới của nhà nước, gia đình được chia ruộng, bởi vậy họ vừa đi thuyền, vừa làm ruộng.
Ông Tân có một con thuyền vận tải bằng gỗ, trọng tải vài chục tấn. Tài sản tích cóp của cả một đời sông nước, song cạnh đó, cũng làm nghề nông. Tập được sinh ra trên thuyền. Ông Tân là người đỡ đẻ. Khi bà Tân trở dạ, biết không thể chờ đợi lâu, không thể hy vọng có nữ hộ sinh, ông đã sai người hơ con dao vẫn dùng để mổ cá trên lửa, dùng nó cắt rốn cho con. Mới hơn năm, Tập đã lon ton trên mặt thuyền, vài tuổi đã  bơi lội như con dái cá   trên sông. Tập say mê sông nước như cha mình. Cậu có thể nghe tiếng con sông thở, tiếng con sông trở mình mỗi lần đổi trời. Ông Tân đã huấn luyện Tập đi thuyền ngay từ  lúc Tập hơn chục tuổi. Ý nguyện cho con tiếp quản  thuyền và  nghề kinh doanh vận tải thủy. Các công việc như cầm lái, cột dây buồm, neo và néo buồm. Khó nhất là việc điều khiển phối hợp các cánh buồm lợi dụng sức gió và lực của dòng chảy để con thuyền xuôi ngược điệu nghệ trên mặt sông... Sau khi học xong lớp 7, Tập xuống thuyền, nhanh chóng trở thành lao động chính. Tập cao lớn, vạm vỡ, da bánh mật, chân đi vòng kiềng, giọng nói trầm đục, tỏ rõ là một thanh niên có bản lĩnh.
Từ bao năm nay, cứ hai năm một lần, làng Thượng Cát tổ chức lễ hội. Tập được chọn chèo thuyền cùng với đám giai tế trong làng. Anh nào anh nấy  to cao, khỏe khoắn, da bánh mật, gọn gẽ oai vệ  trong trang phục áo lậu “ áo lính ngày xưa”.
Buổi sáng, sương mờ bao phủ cả mặt sông. Dòng sông những ngày đầu xuân mặt nước gợn nhẹ. Đôi  bờ cánh bãi, ngô non ngang lưng người xanh biếc một màu.
Dân làng Thượng cát, dân làng Hạ, dân các làng lân cận đứng kín bờ sông xem rước nước. Trong đó có Liên. Tiếng trống dồn, tiếng người cười nói huyên náo, không khí tưng bừng vui của ngày lễ không làm cho Liên chú ý tới nhiều. Đôi mắt cô tập trung vào một thanh niên đang dang rộng cánh tay mạnh mẽ khỏa  chèo. Con thuyền xé dòng ra giữa sông trong tiếng rúc của tù và. Lòng cô xốn xang những cảm xúc yêu đương.
Thật ra, Tập biết Liên từ lâu. Mỗi lần đội văn nghệ làng Hạ diễn chèo Tống Chân Cúc  Hoa, Thị Mầu lên chùa…Tập đều có mặt. Liên với giọng hát chèo trong trẻo, truyền cảm cuốn hút anh. Khuôn mặt tròn, mái đầu vấn khăn, đôi má phớt hồng của Liên làm say đắm hồn anh.
Tiếng gọi của tình yêu  quyến rũ khiến hai người tìm đến với nhau tự tình bên ghềnh. Dòng sông lúc êm đềm róc rách chảy, lúc cuộn sôi réo. Mảnh trăng và sao trời trôi theo làn nước, lấp lóa.
Tập nói: Anh đã để ý đến em từ lần đầu tiên xem đội văn công làng Hạ diễn chèo. Em vấn khăn. Những làn điệu chèo em hát thật mềm mại. Tà áo mỏng bay lả lướt theo điệu múa. Từ bấy giờ cứ ở đâu có diễn chèo là anh lặn lội đi xem cho bằng. Đặc biệt là các vở diễn trong đó có em thủ vai. Anh rất yêu em!
Liên nói trong tiếng thở hào hển:  Em cũng rất yêu anh! Người em yêu phải cao lớn hơn em một cái đầu, phóng khoáng, mạnh mẽ và giàu lòng tha thứ. Người yêu em phải là chỗ dựa cho em trong gia đình. Gặp anh em thấy anh khỏe mạnh, giàu cảm xúc, chân thành thế là em yêu. Có thể đấy là số phận. Ông trời xe duyên đôi lứa.
*
Nghe  tin  Tập yêu Liên, mặc dù chưa bao giờ gặp cô gái, ông Tân đã không thích rồi. Lòng không an vì con, lúc nào cũng có cảm giác buồn bực thường trực.  Ngồi rót một chén chè đặc , nhấp giọng, khuôn mặt lộ vẻ bực bội, Ông Tân gằn giọng nói với Tập: làng này không thiếu con gái. Sao phải tìm phụ nữ làng Hạ?
Bà Tân ngồi cạnh chồng, với lấy cối vôi, dùng tăm vớt ít vôi bôi lên lá trầu, đưa lên miệng nhai. Khuôn mặt lộ vẻ đau đớn nói, bà đắn đo nói:  mấy ngày nay bố con không ngủ được! Mẹ cũng vậy. Bố mẹ đã rắp ranh cho con con gái nhà ông Từ. Nó xinh xắn, nết na, nhu mì lam làm.
Ông Tân: Con không biết tới lời nguyền ư. Từ bao lâu nay, trai gái làng Thượng Cát mấy khi xây dựng với trai gái làng Hạ. Đấy trông gương nhà Nụ. Người lớn nói không nghe, về làm dâu làng Hạ. Chồng chết. Không ở được với gia đình chồng, mang con về nhà mẹ đẻ. Nay ốm mai đau. Tiền không có mua thuốc. Cả đời sống trong nghèo khó cơ cực. Gia đình nhà Khương cũng thế đấy.
-         Bố mẹ đã dạy con. Làm người, ăn ở phải có đức. Con và Liên đã yêu
nhau. Con không muốn nuốt lời. Con không thay đổi đâu!
Ông Tân nói vẻ thất vọng: Thế là anh lú lẫn mất rồi. Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống. Bố mẹ nó là cái đồ phường chèo. Nói anh hay. Dân ca hát nó hay lăng nhăng lắm. Nghe nói con bé lúng liếng  lắm, bắt cá nhiều tay. Dân gian có câu lấy đĩ về làm vợ, hơn là lấy vợ về làm đĩ. Anh hiểu không?
Bà Tập: hay là anh ăn bùa, ăn bả của con bé rồi.
Ông Tập: làm gì có bùa với bả. Chỉ có con mình nó ngu thôi.
Tập: làm gì có lời nguyền cơ chứ. Bố mẹ cổ hủ lắm. Bố mẹ chỉ muốn con lấy con nhà giàu. Bố mẹ muốn con lấy người con yêu hay lấy người bố mẹ thích.
Bà Tân: bố mẹ chỉ lo cho con thôi.
Tập: Vậy thì bố mẹ mặc kệ con đi. Nếu không lấy Liên, con sẽ ở vậy suốt đời.
Thấy không thuyết phục nổi con. Nói nữa dẫn  tới tranh cãi. Tình cảm cha mẹ với con có thể bị tổn hại. Ông Tân đành nuốt cục giận vào lòng. Bà Tân khuôn mặt ỉu xìu, ngồi yên lặng, nhìn ra ngoài trời, chẳng thiết ngó ngàng tới việc gì.
Từ hôm đó, gặp ai ông Tân cũng nói như để xả bực tức, cáu giận: Ông Tân nói với ông Ban: Thằng con nhà tôi yêu con bé cái Liên ở làng Hạ. Nói mãi, phân tích cho nó mãi, nhất định nó nghe. Nó còn bảo mình cổ hủ, mình tham tiền. Lúc nào cũng đòi môn đăng hộ đối. Giờ con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó. Không như xưa kia nữa.
Ông Bạn: Chúng nó yêu nhau rồi, khó tách lắm. Chặn là phải chặn ngay từ lúc ban đầu. Bây giờ chúng say nhau. Nói nhiều nó hận mình. Thôi thì cứ ưng thuận cho chúng lấy nhau. Cuộc sống của chúng, chúng lo.
Gia đình ông bà Hường cũng không đồng ý cho Liên tìm hiểu Tập. Một phần vì lời nguyền. Phần khác không muốn con gái thành hôn với người có nghề đi thuyền. Bà Hường nói với con gái: người ta có câu:  ai ơi chớ lấy thuyền chài…. Mẹ còn nhớ ngày bé, cứ thấy thuyền  là mẹ cùng  chúng bạn trêu trọc:  thuyền ai đi ngược, đi xuôi. Thằng nào bẻ lái , mút…cho tao. Mẹ không thich cái nghề đó.
Ông Hường: cái nghề sông nước gian nan lắm, vất vả lắm. Vậy mà cũng chỉ vặt mũi bỏ miệng. Có ai làm giàu được bằng cái nghề ấy đâu. Làm vợ người ta, đi thuyền sống với nhau trên thuyền. Bất tiện lắm.
Bà Hường: mày mà lấy nó, thì không mẹ con gì cả! Mày đi theo không. Không có cưới xin gì đâu!
Liên thất vọng tràn trề. Sự tươi tắn trên khuôn mặt mất đi, thay vào đó là gương mặt buồn rầu, đầy âu lo. Không thấy nụ cười duyên như hoa hồng hé nở. Liên loay hoay không biết làm gì để thuyết phục được cha mẹ. Mặc dù bị theo dõi gắt gao cô vẫn ra được chỗ hẹn hò. Mỗi lần như thế, trông thấy anh, cả người cô run lên, đôi chân khuỵu xuống chực ngã. Tập đỡ Liên. Phải lát sau Liên mới trấn tĩnh lại được.
Có lần cả hai phải chạy trốn đám thanh niên làng Hạ. Nghe thấy tiếng chân chạy huỳnh huỵch, tiếng người huyên náo, tiếng gậy va đập vào nhau, họ lẩn xuống phía chân tre, nằm nép vào bờ ruộng. Một vài ánh đèn pin lướt qua. Nhưng rất may không ai phát hiện ra họ. Đợi cho tiếng chân đã  lùi xa, làng xóm yên tĩnh trở lại. Tiếng những con dế bắt đầu kêu ri…..rii..ri, họ mới chia tay.

*
Giặc Mỹ đánh phá miền bắc.  Máy bay Mỹ bắn phá ác liệt cảng Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội. Chúng thả bom nổ chậm xuống sông, ngăn cản tàu bè qua lại. Đã có tàu, thuyền của dân bị chìm vì trúng bom. Chiến tranh ngày càng diễn ra ác liệt ở cả hai miền. Có buổi máy bay Mỹ từng đàn vài chục chiếc gầm rú trên bầu trời, ném bom tọa độ xuống nhà máy, các cơ sở kinh tế, dân sinh, gây chết chóc đau thương cho nhân dân.
Để chi viện cho tiền tuyến, trên trưng dụng thuyền của dân chở lương thực, thực phẩm vào miền trong. Thuyền của gia đình ông Tân đã thực hiện nhiều chuyến vận chuyển gạo xuống Nam Định. Có chuyến thuyền vào tận Thanh Hóa, Nghệ An. Những chuyến đi như thế rất nguy hiểm. Buổi tối thuyền không được thắp đèn, cũng  chẳng  có đèn hiệu nào trên bờ nên rất khó nhận ra luồng lạch, doi cát hoặc các mỏm đá ngầm.  Có lần thuyền phải nằm bờ, chờ tàu bộ đội phá bom nổ chậm ở lòng sông, sau mới tiếp tục hành trình.
Tập ngồi trong khoang thuyền, cầm lái. Đoạn sông này Tập đã quen thuộc đến từng doi cát giữa dòng, từng con ghềnh, từng mỏm đá ven sông.
Giờ là dịp cuối xuân. Hai bên bờ sông, ngô non xanh biếc một màu, những cây gạo đã đơm hoa  đỏ trên cành . Nước sông chuyển đục lờ báo hiệu lũ sắp về. Trên mặt sông, suốt một đoạn từ Làng Cót  đến Hưng Yên, những chiếc thuyền thúng bập bềnh , bập bềnh. Người đánh cá đang thả lưới xuống sông, dõi theo những chiếc phao đang dập dềnh, dập dềnh trôi trên sông nước.
Thuyền xuôi dòng, lại có gió tây nam nên đi khá nhanh. Tay Tập cầm lái, đôi mắt anh quan sát mặt sông,  lái con thuyền tránh những chiếc thuyền thúng, lựa theo dòng, lựa theo hướng gió, cho thuyền xuôi về cửa biển.
Ông Tân cùng mấy thuyền viên tay cầm chão , mắt nhìn cánh buồm, lúc thả dây, lúc níu kéo,  gìm cho cánh buồm no gió. Họ phải phối hợp với nhau thật khéo léo để điều chỉnh vị trí của hai cánh buồm, lúc  nằm song song với nhau, lúc tạo thành một góc. Việc điều chỉnh cánh buồm chủ yếu theo kinh nghiệm căn cứ vào hướng gió, dòng chảy, và sự nhạy cảm tinh tế của người đi thuyền. Con thuyền lúc rẽ sang bờ trái, lúc chếch sang bờ phải tạo thành quỹ đạo chữ chi trên sông.
Hành trình ra cửa biển lần này, thuyền chở gạo và bột mì vào miền trung. Dự kiến hành trình  về , họ mang theo mắm, muối, cá khô. Mỗi chuyến đi như thế kéo dài hàng tháng tính cả thời gian  thuyền phải nằm ở bến bốc hàng.
Lần này về quê, lúc đó đã sang tháng năm. Nước sông Hồng đục ngàu màu đất, cuồn  cuộn đổ về xuôi. Nước sông lên nhanh, mới có vài ngày đã ngập những mỏm đá, ngập ghềnh, tràn lên bãi.
Không thể ngược dòng bằng buồm. Chỉ còn một người trên thuyền dùng sảo đẩy, thuyền viên còn lại xuống bờ kéo thuyền. Tập mặc quần  áo nâu bạc màu. Quần xắn tới gối nhảy từ mạn thuyền xuống nước. Dù đây là đợt nước lên đầu tiên trong năm, nhưng đã có lớp bùn mỏng mới đóng. Bàn chân trong lớp bùn nhão cóng lạnh.  Họ dong chiếc chão được làm bằng xơ dừa dài vài  chục mét, dùng những đoạn chão khác níu vào thân chão chính, thắt vòng , khoác chéo lên vai kéo thuyền đi ngược dòng.
Khó  khăn nhất vẫn là lúc kéo thuyền qua ghềnh. Từ mạn ngược cả dòng nước cuộn chảy xô vào đầu ghềnh sôi réo, gặp vật cản đổi hướng, vật cuộn ra giữa dòng chảy về nam xuôi ra biển. Qua những đoạn ghềnh, người trên thuyền dùng sào chống đẩy thuyền ra xa bờ, người kéo thuyền gò lưng, chân bấm vào từng thớ đất ven sông ra sức kéo, có khi mất cả buổi con thuyền  mới vượt qua được ghềnh nước.
Việc kéo thuyền chỉ dừng lại lúc nửa đêm. Họ neo thuyền ở vật nước, chỗ nước quẩn. Sau khi lặn  ngụp dưới dòng nước mát lạnh, Tập nằm trên mui thuyền, ngắm trăng và sao. Dù mới xuống thuyền, nhưng vốn con nhà nòi nên việc lái thuyền, điều khiển buồm, níu dây kéo thuyền Tập nhanh chóng thành thạo, thậm chí hơn cả những người đi thuyền thâm niên hơn chục năm. Trong huyết mạch anh, dòng máu cuộn chảy là dòng máu của dân đi thuyền có lõi đã nhiều đời gắn bó với thuyền, với những dòng sông miên man chảy.
Mùa hè, song về đêm gió mang hơi nước thổi tới mát lạnh. Chòm sao Bắc đẩu đã ngả về phía tây. Đôi mắt con vịt nhấp nháy, nhấp nháy thâu đêm ở phía tây nam. Nhiều sao quá. Sao mọc chi chít, chi chít như những miếng đa kê. Tập nhớ tới Liên. Khuôn mặt tròn của nàng chẳng cần son phấn cũng phơn phớt  hồng tự nhiên. Đặc biệt xinh khi nàng tỏ  ra bẽn lẽn, hai má đỏ lựng như cà  chua vừa chín trông rất đáng yêu. Tập nhớ lại những đêm chèo do đội văn nghệ làng Hạ biểu diễn. Liên vấn khăn, mặc áo mớ ba màu vàng, bước chân như bay trên sân khấu theo nhịp trống chèo. Thân hình nàng trong trang phục áo mớ ba lúc dướn lên, lúc xoay nghiêng uyển chuyển và gợi cảm. Nàng được đám con trai làng Hạ để ý. Anh chợt thấy cay cay nơi sống mũi.
Đã hơn tháng nay Liên ngóng tin Tập. Hàng ngày, khi ra bãi nhổ đỗ,  Liên thường ghé ra bến , trên vai đôi tòn ten đôi quang gánh, mắt quan sát những chiếc sà lan, những con thuyền buông neo lui về phía dưới ghềnh. Dòng nước sôi réo đầy xoáy cuồn cuộn đổ về xuôi. Vẫn không thấy thuyền của Tập về neo đậu ở bến quê. Liên bỗng lo lắng khi chợt nhớ tới tin trên đài cô vừa nghe. Máy bay Mỹ đánh phá cảng Hải Phòng, ném bom nổ chậm xuống sông. Tàu thuyền của ta qua lại đã bị trúng bom….
Cho mãi tới ngoài mồng, thuyền của Tập mới về tới bến quê. Mặc chỉ độc chiếc quần nâu, ngực vồng lên từng múi cơ vạm vỡ, da bánh mật trông Tập giống như vận động viên thể hình. Anh nhảy xuống bờ bãi, kéo dây neo một đoạn khá dài vào bờ, chọn chỗ đất thịt rắn cắm neo. Anh vội về nhà. Từ bến đến nhà khoảng bảy trăm mét. Xóm chỉ có vài nóc nhà ở lảnh ra một khu riêng vốn của những người dân làm nghề đi thuyền từ lâu đời nay.
Sau hơn tháng trời xa cách, nỗi nhớ nhung dồn lại, nay Tập mới gặp Liên. Chỗ này gần ghềnh nước. Trời tối, vẫn có thể thấy nước sông ngàu màu đỏ, mặt sông rộng ra mênh mang. Tiếng con nước cuộn vào với nhau sôi réo. Chỗ này khuất vắng , không sợ bọn con trai làng Hạ rình rập đuổi đánh.
-         Sao lần này anh đi lâu  thế?
-         Lúc về , nước lên, kéo thuyền ngược dòng vất vả quá!
-         Em cứ lo lo là. Nghe tin, máy bay Mỹ thả bom nổ chậm xuống sông.
Một số tàu thuyền bị chìm do vướng phải bom.
-         Sống chết có số. Anh chẳng chết được đâu. Em đừng lo.
-         Anh lúc nào cũng đùa. Anh Tập! Chúng mình cưới nhau đi!
-         Sao vậy? Có chuyện gì à?
-         Có! Mà thật ra chẳng có chuyện gì. Bố mẹ gả em cho người cùng làng.
Tập sửng sốt: Thật à. Thế bao giờ cưới…
-         Sao anh lại hỏi vậy.
-         Anh không biết!- Tập nói.
          Bất giác nhớ lại câu thơ truyền miệng của dân làng: Ai ơi! Chớ lấy thuyền chài. Lênh đênh sông nước, không nhà,con ngu. Lòng anh dội lên nỗi đau vì lòng tự tôn bị xúc phạm. Song anh không thể nghĩ rằng, cuộc sống của anh sẽ thiếu Liên. Càng yêu Liên, nỗi thất vọng, nỗi đau  càng vò xé anh. Bố mẹ anh tin vào lời nguyền, dứt khoát không đồng ý cho anh lấy Liên. Còn dọa sẽ chết, sẽ từ con, sẽ cấm anh sau này không được nhắc tên các cụ trong các nghi lễ cúng giỗ. Bố mẹ Liên không muốn con gái thành thân với con trai làng Thượng cát, đặc biệt với Tập lại càng không muốn. Ông Hưởng nói với con gái: Làng thiếu gì đàn ông mà mày phải đi tìm hiểu nó. Lấy nó, thà lấy thằng đui què mẻ sứt còn hơn. Nó đi thuyền cả tuần, cả tháng. Bố mẹ nó đi thuyền, mấy đời nay có khá hơn được đâu. Chẳng nhẽ mày thích xuống thuyền cơm niêu , nước lọ.
Lắm lúc Tập muốn quên đi cuộc tình này. Lánh đi. Lánh xa tất cả. Nỗi đau rồi sẽ nguôi ngoai.
Sáng nay, sau những ngày oi nồng, trời bỗng nhiên dịu lại. Phía đông,đông nam, những vụn mây đen dăng dăng trên nền trời. Lác đác có mưa, rồi trời tạnh ngay. Ngần ấy thôi cũng đủ xua tan oi nóng của ngày hè. Thuyền của Tập vẫn nằm ở bến. Mọi người đang chuyển muối, cá khô lên bờ cho các hợp tác xã mua bán, cho tiểu thương ở các chợ.
Tập và Liên quỳ lạy ông bà Tân. Tập nói nhát gừng từng câu, từng chữ. Khuôn mặt nghiêm trang, căng thẳng. Liên có vẻ ngượng ngập, cô không dám ngước nhìn ông bà Tân.
Ông bà Tân sửng sốt, bất ngờ trước hành động này của tụi trẻ. Ông Tân nhìn Liên, thầm nghĩ: Con bé trông cũng kháu khỉnh, nhanh nhẹn. Nhưng nó là con gái làng Hạ. Ông xót con lắm, làm  cha ai không thương con, không xây dựng cho con cơ chứ. Cả đời ông, làm lụng, dành dụm tất cả vì đảm bảo cho cuộc sống của con sau này ổn định, phát triển. Đấy là tình cảm, là trách nhiệm của thế hệ đi trước đối với thế hệ sau. Song ông vẫn nghiêm nét mặt. Trong lòng ông còn có nỗi sợ hãi lớn hơn. Đó là lời nguyền. Từ bao đời nay, cũng đã có đôi vượt qua lời nguyền để đến với nhau, nhưng kết cục đó chỉ là sự tan đàn xẻ nghé; Vợ góa con côi.
Bà Tân giục: Anh chị đứng dạy đi.
Ông Tân: Anh chị nghĩ kỹ chưa. Lâu nay  tôi vẫn trăn trở đau đớn về việc của anh chị. Xét cho  cùng, chúng tôi cũng chỉ vì tương lai, hạnh phúc của con cái mà thôi. Tôi biết, chúng tôi không thể sống mãi để lo lắng cho con cái. Rút cuộc cuộc sống của anh chị sau này thế nào bản thân anh chị phải là người xây dựng. Cha mẹ chúng tôi có ý kiến như vậy. Quyết định vẫn là ở anh chị. Sau này có vất vả thế nào cùng đừng trách chúng tôi.
Gia đình ông bà Hường lâu nay sôi sục vì chuyện của con gái. Bà Hường đứng ngồi không yên, suốt ngày thở dài. Ông Hường lặng lẽ, khuôn mặt ông buồn rười rượi. Đôi lúc ông buột miệng: Trai làng thiếu gì, lại đi yêu cái thằng  thuyền chài, suốt ngày….b..d ..sũng nước. Lại còn cãi bố , cãi mẹ cơ chứ. Thuyền chài, hay thuyền vận tải thì cũng  thế thôi.
Bà Hường thấy con gái một mực cả quyết, thậm chí nhịn ăn lấy làm lo sợ lắm. Không khéo mất con. Bà nói: Thôi! Đất không chịu trời, thì trời chịu đất. Không may nó làm điều gì dại dột bêu cha , bêu mẹ. Thôi! Cho chúng cưới nhau quách đi.
Để tránh tháng ngâu, đám cưới được tổ chức vào một ngày cuối tháng sáu, năm đó. Đã lâu lắm rồi mới lại thấy con trai làng Thượng Cát lấy con gái làng hạ. Đoàn người đón dâu đi trên con đê bối nối giữa hai làng. Cô dâu vận quần sa tanh đen, áo trắng chiết ly, khuôn mặt phớt hồng e ấp rạng ngời hạnh phúc. Chú rể lực lưỡng trong trang phục quần gụ, áo gụ tươi mới.
Tháng 7 năm ấy mưa nhiều. Mưa rơi rả rích vào mỗi sáng, mỗi chiều. Mưa  rơi qua đêm. Bầu trời lúc nào cũng sũng nước. Ngoài sông, nước lên to, ngập hết cánh bãi ven sông vào tới chân đê. Mặt sông nước chảy như thác cuốn theo củi  rều và bèo bọt. Đôi khi nước cuốn theo cả mái nhà tranh ở giữa dòng.
Vào một đêm trước ngày lễ Vulan, bão số 7 ập đến. Cả đêm gió gầm rít, giận dữ bẻ cây cành ném đi các nơi. Gió ào ạt trên cây sầu đông. Gió giằng xé những tàu lá chuối. Gió thốc và nhà giựt những tấm cửa bằng liếp tung hê đi xa. Ở nhà Liên, mẹ chồng cuống cuồng buộc néo lại những tấm cửa liếp, che ngọn đèn dầu cho gió khỏi thổi tắt. Sau đó ngồi bó gối trên chiếc tràng kỷ lòng lo lắng,  mong bão đi qua.
Bà Tân: Lạy Thánh mớ bái  cho chồng con con vô sự. Con lạy Thánh. Con lạy Thánh.
Liên : Gió gì mà ghê thế không biết. Lòng cô đang như có  lửa đốt.
Trong lúc ấy, Ông Tân cùng con trai đang tìm cách neo con thuyền lại ở vật nước. Tập nhảy lên thuyền. Ông Tân quát: xuống thuyền ngay! Xuống ngay. Song Tập vẫn không chịu  xuống bờ. Ông Tân tấp vào bụi tre gần đó nhìn con thuyền đang chao đảo trước gió và sóng. Con thuyền lúc dềnh lên cao, lúc trụt xuống, lúc chao nghiêng, lúc vặn mình kêu răng rắc làm ông Tân hoảng hốt. Trong chốc lát, cột buồm gãy đổ. Con thuyền nghiêng hẳn về một phía. Gió cuốn những tấm phên mui, những tấm gỗ lát mặt thuyền vứt xuống lòng sông. Nước tràn vào lòng thuyền. Nghe đến rắc một cái, con thuyền vỡ ra làm nhiều mảnh. Ông Tân hoảng hốt gọi: Tập xuống ngay đi con. Tập nhảy ào xuống nước, vật lộn với dòng xoáy một lát mới lên  bờ được. Hai bố con cay đắng nhìn con thuyền của gia đình phút chốc tan thành mây khói.
Sau khi bão tan, vợ chồng ông Tân cùng con cái thu nhặt lại những gì còn sót lại của con thuyền. Dây neo, mỏ neo cùng cọc neo. Một vài tấm gỗ tạp. Còn lại nước và gió đã cuốn đi .
Con thuyền là tài sản, là kế sinh nhai truyền thống của gia đinh không còn nữa. Con thuyền là ước mơ của ông, tình yêu của ông  đối với sông nước không còn nữa. Ông đã định giao  nó cho Tập. Nó đã thành thạo  sông nước, đã thuộc từng bãi cạn, từng doi cát trên sông. Bằng con thuyền, vợ chồng nó có thể mưu sinh, đỡ đần ông bà lúc tuổi già. Thế mà ông trời lấy đi của thằng bé. Ông trời không thương người khó!
Việc con thuyền nhà ông bà Tân bị bão đánh tan trong đêm khiến dư luận hai làng ồn ào. Chỗ này, chỗ nọ người ta thêu dệt, đơm đặt: “Đã nói, trai gái hai làng không được lấy nhau. Cứ cố mà lấy. Không tránh được cơn thịnh nộ của thần. Thời nay duy vật, duy tâm cái nào thắng cái nào? Mình người trần mắt thịt sao biết được. Nên cứ tránh đi là hơn.”
Có người thì thầm: con Liên mang họa cho gia đình nhà ông Tân. Đấy chuyện dựng vợ gả chồng khó thế đây. Có con dâu tạo phúc cho gia đình nhà chồng. Có dâu về nhà chồng thì sự cố liểng xiểng.
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Bà Tân buồn ốm nặng hàng tuần. Gia đình đưa bà đi viện tuyến trên nằm hàng tháng trời. Liên chăm sóc mẹ chồng ở viện. Mỗi lần bà Tân nhìn thấy con dâu, là thở dài. Trong lòng bà những tiếng nói thầm ở đâu đó mách bảo: nó là mầm họa. Nó là mầm họa. Điều này bà chẳng dám nói với một ai.
Bà Tân nói với chồng: tôi đã mượn thày thống phá cho chúng khỏi yêu nhau. Vậy mà đùng một cái ông đồng ý cho chúng thành vợ thành chồng. Thật trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Ông Tân cau mày, khuôn mặt đanh lại. Ông nói: bà đừng nghe miệng lưỡi thế gian. Họ đâm bị thóc, chọc bị gậy. Làm gì có thần thánh cơ chứ. Không làm mà có cái ăn à. Chỉ là may rủi thôi.
Chuyện cũng đến tai Liên. Liên đâm lo. Nhưng trái tim mách bảo: Mình không phải là mầm họa. Không ! Không đời nào. Bởi tâm nguyện của Liên hướng  thiện, biết yêu , biết kính, biết nhường. Liên một lòng yêu, vun đắp cho tương lai. Vậy sao Liên có thể là mầm họa cơ chứ. Nhưng nhiều người nửa kín nửa hở làm Liên phân vân, nghĩ: Nhưng biết đâu. Có phải cứ thiện là gặt hái được điều tốt. Có người tích đức vậy mà gặp hết vận xui nọ đến vận xui kia. Có đứa gian manh, cờ dong bạc dài vậy mà cứ ngạo nghễ, cao đạo. Vậy là từ đó Liên tự dằn vặt mình. Trong gia đình chồng, Liên lấm lét, co dúm khổ sở. Chỉ trong  đêm, trên cái phản gỗ, trong vòng tay mạnh mẽ của chồng, bằng sự an ủi của chồng Liên mới vợi đi được chút âu phiền.
Năm 1968, Tập nhập ngũ. Anh được chuyển ra Thủy Nguyên về một đơn vị đặc công nước. Sau hơn năm luyện tập, đơn vị chuyển về Chí Linh tiếp tục đợt huấn luyện.
Trước khi vào nam, được nghỉ phép vài ngày, Tập dọi lại cho bố mẹ mái nhà, mái bếp, lấy rơm trộn bùn trát lại bức vách phía đông gian buồng của vợ chồng anh. Anh luôn tâm niệm làm điều này trước khi đi xa. Bố mẹ Tập đã ngoài sáu mươi. Ông bà đau yếu luôn. Hai đứa em liền kề toàn gái cả. Em trai út còn bé, chưa thể chăm lo việc gia đình.
Anh cùng vợ mang đứa con trai gần hai năm tuổi sang thăm ngoại. Sau mấy năm quân ngũ, Tập rắn rỏi hẳn lên . Từ phong cách, suy nghĩ đến lời ăn tiếng nói đều biểu lộ sự chín chắn cương nghị đậm chất lý tưởng, khiến Liên có cảm xúc hạnh phúc tin tưởng, tự hào ngập tràn.
Hôm Tập trở về đơn vị, chị cùng con tiễn chân chồng tới ga Tía. Chị nhìn theo con tàu hỏa, bàn tay anh vẫy vẫy.. cho đến khi tàu khuất vào chỗ rẽ. Lúc đó nước mắt của thương nhớ mới lăn dài trên má chị. Chị dụi mặt với nước mắt thương yêu vào mặt con, rồi bồng con ra về.

*

Hơn năm sau Liên được tin chồng hy sinh ở mặt trận phía nam. Người cùng đơn vị trở về nói rằng, một quả pháo nổ  giữa đội hình đơn vị khi họ hành quân ra sông Tiền. Trong ánh chớp loe lên, và tiếng nổ đinh tai nhức óc của các loạt đạn pháo, tôi nhìn thấy anh ấy bị tung lên bắn ra bờ sông. Sau trận đánh đơn vị cho người quay lại tìm thi hài đồng đội nhưng không thấy cậu ấy.
Nghe đến đó Liên không thể chịu đựng nổi. Chị bàng hoàng, thảng thốt, buông rơi cái lược trong tay. Lòng chị bỗng nhiên thấy trống vắng tới không cùng. Chị thẫn thờ hàng giờ,  sau đó  mới bật lên tiếng khóc đau thương nghẹn ngào. Có thể nào tin được anh đã hy sinh! Anh  không  thể trở về với chị và con. Chị lao vào buồng, ôm chặt con vào lòng. Thằng bé vẫn đang thiêm thiếp ngủ.
Có buổi, khi chiều  về, Liên bế con đứng bên ghềnh. Bên kia sông hoàng hôn màu tím loang khắp chân trời.  Liên dõi theo bóng dáng những con thuyền xuôi ngược. Dòng nước vật mình gầm gào chảy. Những kỷ niệm của tình yêu bỗng chốc sống lại trong lòng chị. Tất cả như vừa mới qua đây thôi. Chị tự nhủ: anh ấy còn sống. Niềm tin vào tình yêu mách bảo chị : anh Tập còn sống. Dòng sông sẽ chở che,  như lòng mẹ cưu mang những đứa con. Nhất định anh ấy còn sống! Chị dụi mặt vào hai má ấm nóng của đứa trẻ, cảm thấy như có mùi thịt da của anh.
Hơn năm sau  ông Tân mất. Đó là  một ngày hè, nắng dữ dội. Gần trưa, trong lúc đi cày, bỗng ông Tân  đổ vục xuống.  Hàng xóm xúm lại đưa ông Tân về nhà, đánh cảm, nhưng ông không qua khỏi.
Bà Tân buồn chán, thành thử lâm bệnh nặng, nằm liệt giường vài năm liền. Liên tự nhủ: mình không thể mềm yếu. Lúc này, con trai đang cần mình, mẹ Tân đang cần mình. Nén lại nỗi đau mất mát, Liên gồng mình làm lụng nuôi con, chăm sóc bà Tân nhiều  năm trời , tới khi bà theo ông về nơi đất phật.

*

Bố tôi kể:  Khi kết thúc trận đánh tối hôm đó, đơn vị chuyển quân, qua bìa rừng tới gần bờ sông thì pháo của địch bắn tới. Có quả nổ trúng đội hình. Bố bị sức ép của đạn pháo  văng ra sông. Bố không biết gì hết, chẳng  suy nghĩ được điều gì lúc đó. Cho đến khi tỉnh dậy, bố thấy mình nằm trong căn hầm. Ngồi cạnh bố là một cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi, quàng khăn rằn, khuôn mặt trái xoan, trắng. Cô gái đặt tay lên trán bố, dịu dàng nhìn bố, nhoẻn cười mừng rỡ nói: anh tỉnh rồi. Sau đó bố lại chìm vào cơn hôn mê.
Bố tôi kể tiếp: Ngày sau bố mới tỉnh lại. Trong người cảm thấy ngẹn thở và vô cùng mệt mỏi. Cô gái nói bằng chất giọng êm dịu trìu mến:  em và mẹ thấy anh nằm ria mép nước, vẫn còn thoi thóp thở. Mẹ bảo em: người đằng mình  đó. Hai mẹ con em đưa anh về, giấu dưới hầm. Anh cứ ở đây. Mẹ con em chăm sóc vết thương. Khi nào khỏe anh hay trở về đơn vị.
Bố đã ở đấy gần sáu tháng, sau mới tìm về được đơn vị.
Sau năm 73,  bố tôi ra bắc. Ở  trại an dưỡng chưa đầy ngày, ông háo hức khoác ba lô về làng, lòng chộn rộn với bao suy nghĩ về những đổi thay của quê hương, của gia đình. Những khát khao đoàn tụ, hạnh phúc bấy lâu dồn nén, nay có cơ hội giải tỏa làm ông phấn chấn và kỳ vọng.
Vừa nhìn thấy bố tôi, mừng  rỡ và xúc động, mẹ tôi lặng người. Mẹ lảo đảo, vịn vào thành ghế, ngồi xuống, đôi mắt không rời bố tôi. Lát sau mẹ nói: Em đã tưởng không bao giờ còn gặp được anh! Mẹ khóc vì mừng vui, nước mắt chảy dàn dụa trên khuôn mặt hóp gày, nâu rám.
Bố tôi nói: không lúc nào, anh thôi nghĩ về em, về con, về cha mẹ. Chiến tranh vô cùng ác liệt. Trong một trận đánh, anh bị sức ép của pháo, văng ra sông. Một mảnh pháo găm vào ngực anh. khiến anh mê man bất tỉnh nhiều ngày. Những tưởng không bao giờ còn được gặp em và con…Anh thất lạc đơn vị, mất hoàn toàn liên lạc với em. Em, con, cha mẹ và quê hương thân thương đã cho anh khát khao cuộc sống , sống để trở về.
Mẹ tôi thôi khóc, khuôn mặt trở lên vui vẻ, tươi tình.
Buổi chiều đó, bố tôi đưa mẹ ra ngồi bên ghềnh đá. Bên bên sông, bố mẹ hồi tưởng lại những kỷ niệm về tình yêu. Vào mùa thu, dòng nước xanh trong êm đềm chảy. Nước réo rắt như điệu nhạc qua ghềnh.
Sau thời gian ở trại an dưỡng, bố tôi được phân công về làm việc ở khu gang thép Thái Nguyên.
Tôi và mẹ theo bố lên Thái Nguyên sinh sống. Mẹ tôi được nhà máy gang thép bố trí cho làm việc hành chính ở cơ quan. Mấy năm sau, mẹ Liên mất.  Bố tôi không đi bước nữa. Ông không thể yêu ai ngoài mẹ tôi. Gần hai chục năm sau, gia đình tôi chuyển về Hà Nội.
Hàng năm vào mùa xuân, khi làng tổ chức lễ hội, tôi đều về quê để được đắm chìm trong làn điệu chèo, ngắm những con thuyền thư thả  theo từng nhịp, từng nhịp mái chèo  ra giữa dòng lấy nước tế. Văng vẳng đâu đây giai  điệu chèo mẹ tôi từng hát, khiến lòng tôi xốn xang bao ý nghĩ. Tôi như nhìn thấy mẹ tôi thon thả trong trang phục áo mớ ba. Mẹ tôi như bay, thân hình uyển chuyển trong tiếng trống chèo.
Mặt  sông mờ tỏ hơi sương.
Hoa gạo đã đơm những cánh hoa  đỏ đắn.
Lời nguyền tình yêu giờ chỉ còn là câu chuyện truyền thuyết. Theo giấc mơ của một trưởng lão “ Một ông lão người làng Thượng Cát, vốn đuổi vịt đồng. Để đánh giấu mốc giới ruộng đất giữa hai làng, ông đào ruộng, bỏ vỏ trứng vịt xuống ranh giới rồi lấp đất”, dân hai làng đào ruộng , lần theo dấu vết của vỏ trứng  xác định ranh giới. Từ đó mâu thuẫn giữa hai làng chấm dứt. Trai gái hai làng nhiều cặp nên vợ nên chồng.
Chẳng biết có phải cơ duyên xui khiến. Tôi cũng là rể của làng Hạ.
                                                                  

Hưng Yên năm 2015

BÍ THƯ

Truyện ngắn của Hồ Ngọc Vinh
Cuộc họp dự kiến vào lúc 8h nhưng phải tới 8h 30/   sáng mới có thể tiến hành. Đông  ngồi vào chiếc ghế giữa hai hai hàng bàn  xếp theo hình elip, chiếc ghế này lâu nay mặc nhiên dành cho chủ tịch đoàn, người chủ trì cuộc họp. Bên cạnh là phó bí thư kiêm chủ tịch xã Luận, mái tóc hoa râm, khuôn mặt phía trên trán hẹp, từ đuôi mắt trở xuống  tới gò má nở phè ra, sau đó phía dưới thu nhỏ lại vào cái cằm nhọn. Đôi mắt của Luận lộ vẻ tinh ranh, sắc sảo. Khuôn mặt và ánh mắt ấy cho thấy đây là một người giảo hoạt, tham vọng và mưu lược.
 Đông nói: Cuộc họp đảng ủy hôm nay, có mấy nội dung chính. Một là đánh giá tiến độ thực hiện việc xây dựng nông thôn  mới, đặc biệt là việc bê tông hóa đường làng theo chủ trương của các cấp ủy Đảng và chính quyền cấp trên. Hai là dự kiến nhân sự cho bầu cử đảng bộ nhiệm kỳ tới. Và thứ ba đó là chủ trương lập các đoàn thanh tra, tiến hành thanh tra kinh tế trong ba khối: nông nghiệp, dịch vụ…
Thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các cấp chính quyền ở xã  theo chủ trương của Đảng theo Đông là vấn đề khó. Từ khi thay Thái giữ chức bí thư đảng bộ xã Chính Nghĩa, anh vẫn nung nấu ý nguyện thực hiện, song chưa có cơ hội đưa ý kiến này ra trong các cuộc họp Đảng ủy.
             Dung phó chủ tịch phụ trách văn hóa xã nói: 19 chỉ tiêu đặt ra cho việc xây dựng nông thôn mới, điện , đường, trường trạm… xã chúng ta đã đạt được 10 chỉ tiêu. Năm nay, nhà nước cho xi măng, dân  góp cát và công sức,  các tuyến đường trong thôn , xã  về cơ bản đã được bê tông hóa. Khuôn mặt của làng quê ngày càng khang trang…
            -Tôi băn khoăn không hiểu tại sao lại phải thanh kiểm tra kinh tế- Luận nói- Liệu có ý đồ gì đó khuất tất không?
-         Đây có phải là cái cớ để “dọn dẹp”  không? - Cường nói- tình hình kinh tế, văn
hóa,an ninh chính trị trong xã ổn định. Hà cớ gì phải thanh kiểm tra. Tôi đề nghị Đảng ủy cần cân nhắc kỹ việc này trước khi quyết định.
Đông nói: chúng ta đều thấy, kinh tế nông nghiệp và dịch vụ tăng trưởng khá. Tệ
nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút giảm rõ rệt. Đời sống nhân dân trong địa bàn cơ bản được cải thiện. Tuy nhiên dư luận trong dân vẫn còn bức xúc. Một là vấn đề tài chính lâu nay từ nhiệm kỳ trước tới nhiệm kỳ sau không được bàn giao. Một số công trình phúc lợi xã hội như trường THCS, hội trường giá đội lên quá cao, trong khi vừa đưa vào sử dụng đã có hiện tượng nún nứt, gạch lát bị bong vỡ. Việc quản lý đất đai cũng còn nhiều bất cập. Nhiều hộ dân lấn chiếm đất công xây tường, làm nhà chưa được sử lý triệt để, gây khiếu kiện… Để sử dụng đồng  vốn của dân, đầu tư có hiệu quả, tránh hiện tượng tham nhũng rất cần có thanh  kiểm  tra toàn diện, minh bạch trước dân.Tôi đề nghị các đồng chí cho biểu quyết về chủ trương này.
            Không khí của cuộc họp đột nhiên trở nên im lặng khác thường. Mọi người nhìn nhau do dự. Nhưng rồi chủ trương Đông đưa ra cũng được thông qua.
            Đông nói: như vậy mọi người đều thấy cần thiết tiến hành kiểm tra kinh tế ở một số ban ngành trong xã và nhất trí với chủ trương này. Nếu vậy, trước mắt chúng ta phải lập các tổ thanh tra, bao gồm những đồng chí có kinh nghiệp, nếu có nghiệp vụ kế toán thì càng tốt. Mỗi tổ cần ba người. Thành viên trong các tổ không nhất thiết phải là lãnh đạo đảng, chính quyền xã, có thể là các đồng chí đảng viên trong các Chi bộ. Mục đích của việc làm này giúp cho việc quản lý tài chính, kinh tế của các cấp chính quyền trong xã được tốt hơn nên phải làm ngay….
*
Rời cuộc họp với tâm trạng bực bội, lo lắng, Luận cùng Cường rẽ vào quán bia. Họ chọn một góc vắng, ngồi rồi gọi bia uống. Cường nói: Em biết mà. Ông Đông cứng nhắc lắm. Ông Đông còn làm Bí thư có ngày anh em mình gặp nạn. Được biết trước đây cũng vì hay có ý kiến mà Đông phải luân chuyển cơ quan vài lần.
Luận nhìn Cường ánh mắt vừa có vẻ khinh thị, vừa mang tính răn đe, nói: Cậu thì biết gì! Đông có chuyển đổi một vài cơ quan thật, nhưng dư luận về Đông rất tốt đấy. Mọi người khâm phục Đông bởi sự trung thực, phẩm chất lý tưởng và sự nhiệt tình, năng nổ trong công việc. Đối phó không dễ đâu. Luận nói rồi lặng im chốc lát, đôi mắt và khuôn mặt lộ vẻ mệt mỏi. Luận nhớ lại những lần thử kéo Đông về phía mình, bằng cách làm thân, tranh thủ ý kiến, thậm chí không ngại ngần chia lộc mỗi khi có lợi từ các công việc trong xã; nhưng Đông đều không nhận, làm Luận lúc nào cũng cảm thấy lo âu. Có lần Luận nói thẳng: Anh làm cán bộ làm gì cơ chứ! Anh chẳng thức thời gì cả! Có gì to tát đâu, chỉ là ít lộc người ta biếu. Minh giúp người ta, thì mình nhận. Anh lo lắng điều gì chứ? Anh làm vậy, bọn tôi khó xử, anh em mất đoàn kết. Đông nhìn Luận bằng ánh mắt sắc cương nghị nói:Mình không lo lắng điều gì cả. Có điều ăn rồi há miệng mắc quai, còn nói gì được anh em. Làm cán bộ phải gương mẫu, liêm khiết mới lãnh đạo được hiệu quả.
 Luận nói với Cường: cậu cũng biết nhiều năm nay, những con số được báo cáo, thông qua trong các cuộc họp của hội đồng nhân dân xã cuối năm chỉ có tính chất tượng trưng, giữa các nhiệm kì chằng có lấy một cuộc bàn giao tài chính cụ thể nào. Giờ thanh tra,  moi móc ra thì rầy rà to.
Cường nói: theo anh việc này có thể thực hiện được không?
Luận nói: Đông có vẻ cương quyết lắm. Rồi dường như không tiện nói thêm, họ rời quán bia lúc trời đã nhá nhem tối. Luận bật đèn pha, ngồi lên xe, như việc làm thường lệ, quan sát phía sau, phía trước rồi mới cho chạy chậm về nhà, lòng vô cùng bực bội, lo lắng, nghĩ tới, nghĩ lui tìm cách ngăn chặn việc làm của Đông.
 Sáng sau, trong gian phòng của bí thư huyện ủy Yến, Luận nói: Báo cáo anh! Em và nói chung dư luận nhân dân trong xã vẫn thừa nhận đồng chí  Đông  là một người trung thực, thẳng thắn, dám nói thẳng , nói thật. Đồng chí ấy là một đảng viên trung kiên.
Khuôn mặt của Bí thư Huyện Ủy tươi lên khi ông nghe Luận báo cáo vắn tắt về công việc của xã. Đây không phải là lần đầu Ông tiếp xúc với với Luận. Gần chục năm nay theo dõi hoạt động của các Đảng bộ các xã trong huyện qua nhiều kênh thông tin ông nắm rõ nhân sự của tửng đảng bộ xã. Tiếp xúc riêng với lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo đảng các xã giúp ông có cách nhìn vừa tổng quát, vừa sâu tới từng cá nhân, thậm chí những cá nhân trọng yếu có ảnh hưởng lớn tới những hoạt động chính trị, kinh tế ở địa bàn; đây là khâu tất yếu trong việc tìm hiểu, bổ nhiệm cán bộ của huyện ủy. Thực tiễn cho ông biết, nơi nào có đội ngũ cán bộ giỏi, có tâm, có tầm, nơi ấy kinh tế phát triển mạnh, an ninh chính trị văn hóa được phát triển. Bởi vậy trong nhiệm kỳ tới này, phải tìm được các nhân tố mới, những cán bộ mới đáp ứng được đòi hỏi đối với cán bộ đảng và chính quyền trong tình hình mới.
Luận không quên theo dõi vẻ mặt của Bí thư huyện ủy. Thấy đồng chí bí thư tỏ vẻ hài lòng, Luận tiếp lời: tuy nhiên, với tư cách là đảng viên, phó bí thư đảng bộ, tôi thấy cần phải báo cáo thêm với đồng chí về những mặt chưa được của cá nhân đồng chí Đông. Thứ nhất, đồng chí Đông chỉ đạo hoạt động đảng ở một địa bàn thuần nông, trong khi ít kinh nghiệm tổ chức sản xuất. Nhiệm vụ của đảng bộ xã là chỉ đạo các hoạt động sản xuất nông nghiệp ở xã, khi bí thư thiếu thực tế về mặt này sẽ dẫn đến tình trạng chung chung, nói không đi đôi với việc làm. Sẽ là lý luận suông như dư luận nhân  dân đã nói về đồng chí Đông. Hai nữa, trong nửa nhiệm kỳ qua, đồng chí Đông với cương vị của mình o ép các đảng viên đồng ý với chủ trương lập các tổ thanh tra, tiến hành thanh tra kinh tế ở một số tổ chức trong xã . Việc làm này  có thể  làm rối  các hoạt động ở xã, gây hoang mang tư tưởng trong các đảng viên trong đảng bộ, trong dân. Một số đồng chí đảng viên trong đảng bộ rất bất bình trước việc làm này, song không dám có ý kiến. Thứ ba, cá nhân đồng chí Đông phạm một vài sai lầm không đáng có. Ví dụ: sử dụng tài sản công vào việc riêng sai mục đích. Việc làm này không những ảnh hưởng xấu tới cá nhân đồng chí bí thư, còn hại tới uy tín của Đảng trong dân.
Bí thư Huyện ủy Yến nhíu mày, khuôn mặt ông lộ rõ vẻ thất vọng. Cuộc gặp mặt với phó bí thư, chủ tịch xã Luận vẻn vẹn trong hai chục phút. Còn lại một mình trong phòng, ông ngồi yên lặng bên bàn suy nghĩ mông lung. Ông nhìn ra bên ngoài. Bầu trời mùa xuân sau mưa phùn dài ngày nay nắng mới le lói cũng đủ để bầu trời u ám kịp vén lên những mảng tươi sáng ở phía đông. Những cây xà cừ, cây sấu khoác màu xanh nõn mỡ màng. Hoa sấu đơm trắng ở đầu cành, rắc những cánh hoa xuống mặt đất. Bất giác ông nhớ lại sự việc cách đây hai năm. Lúc ấy đảng bộ xã Chính Nghĩa là đảng bộ xã yếu kém trong Huyện. Sản xuất nông nghiệp và dịch vụ của xã đi xuống. Đời sống nhân dân khó khăn. Trong xã, hiện tượng ma túy, cờ bạc, lô đề và trộm cắp diễn ra . Trước tình hình đó đảng ủy Huyện có cuộc họp riêng về xã. Kết luận của cuộc họp ấy là cần chỉnh đốn lại đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của xã Chính Nghĩa.
             Yến cho mời Đông lên gặp riêng. Hôm đó cũng vào buổi sáng.  Căn phòng nhỏ nằm trên tầng 2 của trụ sở huyện ủy, thoáng và mát. Ngay phía trên tường nơi Yến ngồi làm việc đặt một khung ảnh Bác Hồ trong tư  thế đàng hoàng, đĩnh đạc và thần thái đang ngồi viết trên chiếc salon bằng song. Trên phía tường trái của gian phòng là bức ảnh các lãnh đạo tỉnh… Thế nào? Anh khỏe chứ- Yến – mở đầu thân mật.
Đông: Cám ơn anh! Tôi khỏe.
Yến  tiếp: Trước đây , anh từng làm việc ở huyện đội, nhiều năm phục vũ trong quân ngũ. Nhiều đồng chí lãnh đạo huyện biết anh. Họ đánh giá rất cao ở hiểu biết xã hội và trình độ văn hóa của anh. Được biết thời gian làm việc ở huyện, anh đã tỏ rõ là cán bộ có năng lực tổ chức quản lý, liêm khiết, một đảng viên tâm huyết và trung kiên với đảng- dừng lại đôi chút, Yến  nhìn Đông như thăm dò rồi tiếp lời- Đồng chí nghỉ hưu lâu chưa?
Mới thôi- Đông đáp.
Yến tiếp lời, có vẻ như tiếc nuối- Hưu trẻ quá. Vào tuổi này còn cống hiến được nhiều. Đồng chí mới vào cái tuổi năm mươi mà. Từng trải và nhiều kinh nghiệm.
Cũng không quá trẻ như anh nghĩ đâu- Đông nói.
Yến: Thôi vào việc ngay nhé. Vừa rồi, đảng ủy huyện có cuộc họp  riêng về xã Chính Nghĩa. Xã Chính Nghĩa hiện nay là xã yếu của huyện. Yếu về mọi mặt. Kinh tế chậm phát triển. Trong xã xảy ra nhiều vụ việc kiện cáo. Các anh bên công an bắt mấy vụ đánh bạc, buôn ma túy ở xã. Đảng ủy huyện rất quan tâm tới tình hình của xã. Nghị quyết của đảng ủy huyện là ngay trong tháng này phải chỉnh đốn tình hình xã Chính Nghĩa, bắt nguồn từ khâu cán bộ chủ chốt. Bởi vậy, đảng bộ huyện mời đồng chí lên đây, động viên đồng chí giữ trọng trách bí thư đảng bộ xã Chính Nghĩa thay cậu Hưng vừa bị kỷ luật đảng. Đồng chí nghĩ thế nào?
            -Cám ơn sự tin tưởng, kỳ vọng của các anh với tôi. Thật ra người đã nghỉ hưu chỉ muốn tĩnh tại, làm những công việc nhẹ nhàng tránh bị dồn ép, bức xúc, ung dung  tự tại mới thực sự là tiên đấy.
            - Tôi cũng hiểu vậy, nhưng bây giờ đảng bộ đang cần người có kinh nghiệm. Đồng chí chịu khó làm bí thư thay Hưng! Dịp này xã nhà đang có vài vấn đề cần giải quyết, cần có người có kinh nghiệm, chín chắn lãnh đạo. Huyện ủy đã rà soát lại đội ngũ cán bộ xã. Đội ngũ lãnh đạo xã hầu hết tuổi đã cao. Lớp trẻ thì lại trẻ quá, chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo. Đồng chí làm bí thư đảng bộ xã Chính Nghĩa , huyện yên tâm. Gắng sức xốc lại phong trào sản xuất, dọn dẹp  tệ nạn, bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo kế cận rồi về. Lúc này là lúc dân cần anh, Đảng cần anh. Không thể từ chối được đâu.
……..  Gần hai năm trôi qua từ khi Đông làm bí thư đảng bộ xã, qua báo cáo của đồng chí Lân  ủy viên thường vụ huyện ủy là người theo dõi trực tiếp xã,  Yến  biết xã Chính Nghĩa  đã vươn lên là một xã có kinh kế nông nghiệp và dịch vụ khá trong huyện. Một vài chính sách khuyến khích kinh tế tiểu thủ công nghiệp của xã đã phát huy tác dụng như: mở dịch vụ giao thông thủy, xây dựng bến bãi khai thác vật liệu. Cạnh đó, chủ trương của đảng về dồn ruộng, đổi thửa, xây dựng nông thôn mới đang được khẩn trương tiến hành. Cho tới nay, theo báo cáo, đảng bộ xã Chính Nghĩa là đảng bộ vững mạnh, các chỉ tiêu về kinh tế nông nghiệp, dịch vụ, chỉ  tiêu tuyển quân đều tăng khá. Xã đạt được 11 trong mười bảy  tiêu chỉ đối với nông thôn mới.Vậy mà theo báo cáo của Luận , Đông lại có những khuyết điểm không đáng có như thế. Đặc biệt là trong giai đoạn này những tháng bản lề kề với nhiệm kỳ đại hội đảng các cấp sắp tới việc tiến hành thanh kiểm tra theo ý kiến của Đông nhằm mục đích gì, trong khi xã cần ổn  định để phát triển. Trong thâm tâm, ông tin Đông. Một đảng viên kiên trung lại có tầm hiểu biết văn hóa xã hội như thế, khó có thể có sai lầm. Vậy thì mấu chốt của vấn đề nằm ở đâu. Việc này cần phải xem xét thật kỹ trước khi có những quyết định tiếp theo.
*
…Sau những ngày oi bức nóng nực, chiều nay trời trở gió. Lốc ào ạt thổi, cuốn bụi, và lá cây tung lên cao, xoáy tròn rồi tấp chúng xuống mặt đất. Lát sau, trời chợt trở lại yên ắng. Mưa bắt đầu rơi. Mưa nặng hạt. Những hạt mưa rào đầu hạ xiên xiên mù trắng cả đất trời, khỏa đi cái nóng như thiêu, như đốt, oi nồng của những ngày  qua. Luận cùng Cường , Hưng và  Mừng ngồi trên chiếc chõng trong cái lều của một khu sinh thái đồng quê. Khu ẩm thực sinh thái này nằm giữa cánh đồng, cách xa khu dân cư. Xung quanh khu ẩm thực là cánh đồng lúa rộng mênh mông, lúa đang thì con gái xanh mỡ màng. Phục vụ bàn là một cô gái chừng 16, 17  tuổi, mặc cái váy ngắn cũn cỡn đến không thể ngắn hơn. Cặp đùi trần, trắng nõn dài đến tận nách khiến thực khách không thể không chú ý, đến nỗi phụ nữ cũng phải cảm xúc ghen tỵ huống hồ đấng mày râu. Cô gái ngúng ngoảy bày trên chiếc bàn bằng tre đĩa thịt mèo xào xả ớt, thịt mèo hấp…rồi đứng cạnh bàn rót rượu.
Luận nói:  Thôi! Hôm nay em không phải rót  rượu. Bọn anh có chút việc riêng, khi cần sẽ gọi.
Rượu đã ngà ngà say, Luận nói: Nếu để Đông làm chuyện này ( thanh tra kinh tế ) thì không những tôi,  các ông nữa cũng sẽ bị liên lụy.  
Ông Đông hay nói quá! Lý thuyết suông. Công việc đang đâu vào đấy, chỉ muốn làm rối tung lên. Làm thế để được cái gì cơ chứ Mừng nói.
-         Để loại bỏ đối thủ thôi! Sắp tới quy hoạch cán bộ cho nhiệm kỳ tới Hưng nói.
-         Ai là đối thủ của ông ấy. Ông ấy cứng nhắc quá. Ở nông thôn đâu như ở cơ
quan, khác . Đem kinh nghiệm từ lĩnh vực khác áp vào thực tiễn ở nông thôn liệu có hợp lý không?
            Câu chuyện giữa họ cứ chung chung như thế, dù trong lòng ai cũng có mối lo canh cánh trong lòng.
            Luận nâng chén nhấp một ngụm rượu, cứ nghĩ đến Đông là sôi ruột, ức như bị bò đá. Cái gai dăm lâu ngày trong bụng không dễ gì nhổ được. Là cán bộ lâu năm ở xã Chính Nghĩa, Luận biết,  lâu rồi từ nhiệm kỳ này  tới nhiệm kỳ khác, sổ sách kế toán có bao giờ được bàn giao. Nếu kiểm tra đất đai, lòi ra ngay một số thửa ruộng được giao cho vài người canh tác hàng năm không phải đóng thuế, chẳng nằm trong hồ sơ sổ sách nào. Hàng năm huyện cấp cho xã tiền….  chi hết bao nhiêu đúng mục đích, còn lại bao nhiêu, giờ bị phát giác qua kiểm tra thì có người mất cả tiền đồ chính trị và kinh tế.
            Luận nói: tôi đã nói chuyện với Bí thư Đảng bộ huyện. Trong đó chú ý khoét sâu vào hạn chế của Đông, nói nhiều, ít kinh nghiệm. Thành  tựu mấy năm qua là kết quả của toàn đảng bộ và nhân dân trong xã, không riêng đồng chí Đông.
-         Tốt nhất là tạo ra dư luận ồn ào trong dân về những khuyết điểm Đông mắc
phải- Mừng nói. Cạnh đó ngăn chặn kịp thời chủ trương thanh kiểm tra.
            Luận gật gù nghĩ: đúng là Mừng, không thể coi thường nó. Thằng cha ít nói nhưng thâm hiểm. Mình  cũng phải dè chừng. Luận nói: đúng thế! Mọi người chặn  ngay việc thành lập tổ thanh tra. Vận động đảng viên , quần chúng không tham gia. Cần thì dọa nạt để Đông không thể làm việc này. Mặt khác  tiêu hủy hết giấy tờ sổ sách từ trước tới nay, bằng cách nào cũng được. Việc làm này có hai mục đích. Một là ngăn bàn tay  của Đông; hai nữa hướng tới loại bỏ Đông  trong quy hoạch cán bộ xã ở nhiệm kỳ tới. Tôi sẽ vận động cấp trên. Các ông nhớ! Chúng ta ngồi trên một con thuyền.
            .. Không lâu sau đó, Mừng vào gặp Đông ở văn phòng. Mừng nói giọng có vẻ như hốt hoảng, nhưng khuôn mặt nhỏ như mặt chuột tinh ranh lại có vẻ như giễu cợt: Báo cáo anh! Không thể lập các tổ thanh tra! Anh ạ! Muốn thanh tra phải có nghiệp vụ. Không có nghiệp vụ, giở đống sổ sách chẳng biết bắt đầu từ đâu, các con số  có ý nghĩa gì Một vài người có nghiệp vụ kế toán đang hưu trí ở xã, từ chối không tham gia. Em nghĩ, việc này khó thực hiện.
            Thật ra Đông đã biết thông tin này. Đông đang đau đầu không chỉ với việc tổ thanh tra cho mãi tới nay chưa thể lập,  mà còn với sự kiện mới xảy ra tối qua. Kẻ trộm đã bẻ khóa một vài gian phòng ở trụ sở ủy ban xã, lấy đi mọi tài liệu lưu trữ . Dư luận trong dân đang ồn ào việc anh sử dụng tài sản công sai mục đích. Đông thấy hình như đang có một âm mưu nào đó ngấm ngầm làm mất uy tín của anh trong đảng bộ và trong dân.
-         Mừng nói: em biết chủ trương anh đưa ra là đúng. Minh bạch và công khai để
ngăn chặn tham nhũng, quản lý  sử dụng tốt tài sản công là việc nên làm, phù hợp với chủ trương của đảng. Việc này em ủng hộ anh. Nhưng em biết một số người không thích đâu. Họ không tiện phản đối anh trong cuộc họp mà thôi.  Mừng nói giọng nhỏ đi vẻ mặt lộ vẻ thông cảm. Nhưng trong lòng Mừng lóe nên ý nghĩ đắc thắng. Ông cứ thử làm đi! Đố ông làm nổi việc gì đấy. Biết điều thì yên bề đi! Nếu không ngựa sẽ gãy chân giữa đường không chừng.
            Buổi chiều hôm đó, họp ban thường vụ đảng ủy. Như  thường lệ, Đông đến sớm, ngồi vào ghế chủ tọa chờ. Hơn nửa tiếng sau mọi người mới có mặt đầy đủ, cuộc họp mới bắt đầu. Không khí của cuộc họp có vẻ yên lặng bất thường. Nội dung kiểm điểm lại việc thực hiện xây dựng nông thôn mới ở các thôn trong xã và xây dựng nếp văn hóa mới ở cộng đồng. Đông cố gắng tỏ ra lạc quan vui vẻ khi nghe các báo cáo. Song trong lòng không thôi với những suy nghĩ về chủ trương lập tổ thanh tra có thể không thành. Đông linh cảm thấy dường như đang có sóng ngầm nào đó quyết liệt đang chống anh từ mọi phía. Điều này anh đã lường được thậm chí trước khi nhận trọng trách làm bí thư đảng ủy xã. Nhưng đấy là tâm nguyện  của anh, muốn ngăn chặn những yếu kém trong công tác quản lý của các cấp chính quyền trong xã. Mấy năm qua, sống trong dân, Đông hiểu dân mong muốn việc đó, những đảng viên tâm huyết mong muốn việc đó. Mục đích cuối cùng là làm cho tổ chức đảng xã vững mạnh, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, xây dựng nông thôn mới mà thôi.
Đông nói; nhiệm vụ  này cho dù khó khăn, nhưng vẫn phải làm. Chúng ta có thể bắt đầu từ viêc thu thập các báo cáo của các ban ngành trong xã qua các năm. Vẫn phải lập ra các tổ có trách nhiệm thanh kiểm tra để thực hiện việc này. Chúng ta làm điều này không phải với mục đích để loại trừ ai mà cơ bản là nâng cao sức chiến đấu của đảng, thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới hiệu quả. Cho  tới 5 giờ chiều cuộc họp mới kết thúc. Đông ngồi lán lại hồi lâu trong phòng làm việc, suy nghĩ mông lung. Sinh ra và lớn nên ở làng, trong bao tháng năm trong quân ngũ, cuộc sống của anh vẫn không tách rời phồn thực vật chất và văn hóa làng. Cho dù mấy năm nay, làng xã, cuộc sống vật chất đầy đủ hơn, nhưng con người vẫn nếp sống văn hóa ấy, theo thói quen. Lãnh đạo xã, các ban ngành nay nhiều hơn, song phương pháp lãnh đạo vẫn xưa cũ, phụ thuộc gần như hoàn toàn vào sự chu cấp kinh tế và chỉ đạo của các tổ chức chính trị cấp trên. Đặc biệt là một số cán bộ chủ chốt xã, thao túng mọi công việc ở xã, bán đất bừa bãi, hoặc câu kết với các doanh nghiệp bán rẻ lợi ích của cộng đồng, thu về lợi ích riêng. Anh muốn thay đổi nếp lãnh đạo xưa cũ ấy, thổi vào đó luồng sinh khí mới, nhiệt tình đoàn kết, vì lợi ích chung của cộng đồng. Muốn vậy, tổ chức đảng phải mạnh, tập trung được những người có phẩm chất đạo đức và ý chí, có năng lực, làm cho các hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội trong xã minh bạch; muốn vậy cần thanh kiểm tra, giúp cho các hoạt động quản lý của chính quyền được tốt hơn. Nhưng thật khó bề thực hiện.
*
            Gần năm nay, Yến  mới về xã Chính Nghĩa, chiếc xe từ trên đê rẽ vào làng. Từ đây đến trụ sở đảng ủy, ủy ban nhân  dân xã Chính Nghĩa chỉ còn chừng bảy trăm mét. Anh vui vẻ vì thấy sự đổi thay rõ rệt của làng trong mấy năm qua. Những nếp nhà tranh, nhà xây cấp bốn nay nhường chỗ  cho những căn nhà hai ba tầng tươi rói màu sơn, đường làng cũng đã được bê tông hóa. Qua tấm kính mờ của chiếc xe, anh có thể quan sát những người dân  tất tả ra đồng.
            Đông tiếp Yến trong phòng làm việc. Anh báo cáo với Đồng chí bí thư huyện ủy những nét chính về kinh tế, văn hóa và trật tự an ninh ở xã trong những tháng qua. Thật ra những điều này, Yến đã thấy được qua các báo cáo thường kỳ của xã. Lần này về Chính Nghĩa anh muốn tìm hiểu thêm về công tác nhân sự chuẩn bị cho đại hội đảng bộ xã, và một vài vấn đề tế nhị khác.
            Yến  nói:Trong cuộc sống, người ta sợ nhất điều gì?
            Đông đang băn khoăn không hiểu Yến ám chỉ điều gì thì Yến tiếp lời- Có nhiều cái phải sợ. Song theo tôi, sợ nhất là ông hàng xóm tham lam, hai là người “hay nói” vạch áo cho người xem lưng, thứ ba những kẻ thủ đoạn.
            Đông lập tức phản ứng; Nói đúng thì đâu có sợ. Người ta chỉ cho mình sai trái để sửa, để ngăn ngừa thói hư tật xấu thì tốt chứ. Cổ nhân nói “ Người chê ta là thày ta”. Vấn đề là mục đích của việc vạch lá tìm sâu ấy.
            Yến: vấn đề là, công việc đang ổn định, phát triển, làm  rối tung lên là điều không nên làm.
            Đông : Anh nói vậy là tôi hiểu ám chỉ điều gì.Thật ra, chủ trương thanh kiểm tra kinh tế ở xã, tôi đã báo cáo với các anh. Có thể có vài đồng chí có ý kiến này khác về vấn đề này, nhưng theo tôi là cần thiết, rất cần thiết để minh bạch các hoạt động của đảng,  đoàn thể ở xã. Có thế lãnh đạo mới nắm rõ được nguồn lực, tập trung cho xây dựng kinh tế, văn hóa, tạo niềm tin trong dân, tránh được tệ tham nhũng. Việc này được đa số các đảng viên trong đảng bộ ủng hộ, nhưng cho tới nay bị chậm trễ vì rất ít người biết nghiệp vụ thanh kiểm tra, kế toán, một số đồng chí ngần ngại  chủ trương dĩ hòa  vi quý không muốn tham gia. Vừa rồi xảy ra tình trạng mất hồ sơ , sổ sách lưu trữ, khiến việc này khó thực hiện.
            Yến ngồi yên lặng, lắng nghe Đông giãi bày. Bằng sự từng trải và nhạy cảm chính trị, anh có thể thấy trước được việc này.
Yến nói:Tôi đánh giá cao  nhiệt tình cách mạng của đồng chí. Tiếp xúc với  lãnh đạo Đảng các xã, tôi thấy ít người vào độ tuổi này vẫn còn đầy tâm huyết và ý chí như thế. Song lưu ý phương pháp gì thì cũng phải tùy vào tình hình thực tế. Đảng bộ huyện, cá nhân tôi ủng hộ chủ trương của đảng bộ xã Chính Nghĩa. Có điều nên bóc tách từng việc gỡ dần, tránh xáo trộn và hoang mang không đáng có trong dân. Bỗng có chuông điện thoại reo, Yến cầm máy nói: xin lỗi tôi nghe máy, rồi áp sát  điện thoại di động vào tai. Yến nói vội: giờ tôi phải về huyện ngay. Lúc khác khi anh lên họp huyện, có thời gian chúng mình sẽ ngồi với nhau lâu hơn về vấn đề này. Yến vội cầm cái cặp da đen, bước ra hành lang gọi lái xe. Chiếc xe đưa Yến về huyện ngay buổi sáng hôm đó.
Vào một ngày không lâu sau đó, huyện ủy họp bất thường về tình hình ở xã Chính Nghĩa. Cuộc họp được tổ chức trong hội trường trên tầng hai. Gian phòng dùng làm hội trường, nơi diễn ra các cuộc họp thường kỳ của huyện ủy nằm ở phía trái nhà, trong phòng kê chiếc bàn hình bầu dục bằng gỗ ép màu nâu, quanh bàn đặt những chiếc ghế đầu mặt ghế phủ đệm nhung màu xanh. Bước lên cầu thang , Yến rẽ trái bước vào phòng với dáng điệu nhanh nhẹn. Anh đường hoàng và tự tin ngồi vào chiếc ghế ở đầu dãy gần bàn cử tọa. Các đồng chí trong huyện ủy đã có mặt đầy đủ.
Yến nói: nội dung  cuộc họp hôm nay chủ yếu bàn về tình hình hình của xã Chính Nghĩa, tình hình triển khai các khu công nghiệp, khu đô thị mới ở xã Ngọc Lâm. Về tình hình ở xã Chính Nghĩ, trước tiên đồng chí  Lân báo cáo. Một số thành tích của xã Chính Nghĩa trong những năm gần đây, tôi đã báo cáo trong các phiên họp thường kỳ. Xã Chính Nghĩa từ yếu kém đã vươn lên thành xã khá của huyện. Điều đó chứng tỏ, lãnh đạo đảng và chính quyền xã Chính Nghĩa đã đi đúng hướng, thực hiện tốt chủ trương , đường lối của đảng nhà nước. Tuy nhiên gần đây có dư luận về đồng chí Đông, thậm chí có đơn thư nặc danh khiếu nại về một vài công việc. Thưa các đồng chí, qua tìm hiểu, được biết thông tin về việc đồng chí Đông sử dụng tài sản công vào mục  đích riêng là không đúng. Sự thật là đồng chí Đông có thuê máy bơm của hợp tác xã, đã thanh toán tiền công thợ, tiền thuê máy. Điều này có đồng chí Lan chủ nhiệm hợp tác xã chứng thực. Lưu ý rằng rất có thể đây là một âm mưu nhằm hạ uy tín của đồng chí Đông trong đảng và trong dân. Mặc dù có những tin đồn thất thiệt, nhưng đồng chí Đông vẫn được các  đảng viên trong đảng bộ xã Chính Nghĩa nể phục, tin tưởng, có uy tín cao trong dân. Về chủ trương lập tổ thanh tra, tôi khẳng định có động cơ đúng đắn, nhằm tạo điều kiện cho lãnh đạo các ban ngành nắm được cụ thể  số liệu về các nguồn  lực để phát triển kinh tế có hiệu quả. Vừa rồi, qua kiểm tra đã phát hiện việc tư thông giữa công ty Thành đạt với một vài lãnh đạo xã, trong đó có cả đồng chí chủ tịch xã, nhằm thầu ba mươi Ha đất làm dịch vụ bến bãi. Việc làm này đã bị phát giác và ngăn chặn kịp thời, tạo được sự tin tưởng trong dân.
Khuôn mặt Bí thư huyện ủy Yến tươi hẳn lên khi nghe thường vụ huyện ủy, phụ trách xã Chính Nghĩa báo cáo. Anh nghĩ, vậy là huyện ủy và cá nhân anh đã không lầm khi nhìn nhận, đánh giá một con người là đồng chí của mình. Anh tự trách mình có lúc niềm tin của anh về Đông bị nung lạc bởi những thông tin không chính  xác về đồng chí của mình.
Rời cuộc họp Yến về phòng làm việc. Anh cầm máy suy nghĩ giây lát rồi bấm máy gọi Đông. Giọng hồ hởi, thân thiện. Tôi vừa được nghe đồng chí Lân báo cáo về tình hình ở xã Chính Nghĩa và của cá nhân đồng chí. Huyện ủy biểu dương những thành quả đảng bộ và nhân dân xã Chính Nghĩa đã đạt được trong thời gian vừa qua. Bên cạnh những mặt tích cực, đảng ủy xã cần khắc phục một số yếu kém ở một vài cán bộ xã. Xử lý vấn đề cần cương quyết, mềm dẻo, được việc song tránh gây mâu thuẫn nội bộ và dư luận không lành mạnh. Huyện ủy nhất trí với chủ trương của đảng bộ xã trong việc thành lập tổ kiểm tra, tiến hành kiểm tra ở mọi khâu: kinh tế, quản lý ở các ngành, đoàn thể ở xã, tạo lập kỷ cương, đoàn kết nội bộ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, văn hóa mới ở nông thôn. Huyện ủy cũng lưu ý đảng bộ xã trong việc quy hoạch cán bộ cho nhiệm kỳ tới. Những đồng chí được cơ cấu lần này cần đảm bảo các quy định trong Điều lệ đảng, có hoài bão, nhiệt tình năng nổ và phải có năng lực tổ chức, lãnh đạo thực sự.
Đông buông máy. Anh cảm thấy vui khi nghe  đồng chí bí thư huyện ủy trực tiếp gọi thông báo kết quả của cuộc họp của huyện  ủy về xã và về cá nhân anh. Anh bước lại gần cửa sổ, trong lòng lắng đọng lại những băn khoăn lo lắng, nghĩ: Được đảng tin, nhân dân tin tưởng, ở cương bí thư đảng bộ, anh sẽ làm, phải làm rất nhiều nữa để đời sống nhân dân trong xã ngày càng được nâng cao hơn.

                                                                        Hưng Yên ngày 8 tháng 6 năm 2015