Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2017

Sự giàu lên của các đại gia làm “nghèo đi” đất nước

Nguồn: phamvietdao/blog

Các tỉ phú Việt Nam. 

Tường Vân

Đất đai là ổ tham nhũng lớn nhất Việt Nam khi nhà nước không có thiết chế kiểm soát và để thị trường bất động sản rơi vào tay các đại gia. Nó cũng là “quả bơm nợ” của nền kinh tế, vì tình trạng cho vay bất động sản quá nhiều làm cho các ngân hàng phải ôm những khoản nợ xấu lớn. Và “giới siêu giàu ngày càng đông – nợ công Việt Nam ngày càng lớn” đó là khẳng định của nhà nghiên cứu cao cấp tại Bộ Công Thương ông Phạm Tất Thắng.

Đất đai là ổ tham nhũng lớn nhất Việt Nam khi nhà nước không có thiết chế kiểm soát và để thị trường bất động sản rơi vào tay các đại gia.

Tỷ phú Việt Nam & Tỷ phú thế giới: “Hai thái cực” làm giàu

Người Do Thái sống rải rác tại nhiều quốc gia khác nhau, nhưng chỉ có Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới. Đất nước Israel tuy nhỏ, nhưng lại là cái nôi của vô số những công nghệ, phát minh mới nhất với chất lượng vô cùng vượt trội. Các tỷ phú thế giới hầu như là người Do Thái, riêng tại Mỹ tỷ phú là người Do Thái chiếm 48% trong tổng số các tỷ phú. Những vị tỷ phú này có những phát minh sáng chế phục vụ không chỉ cho quốc gia của họ mà còn phục vụ cho cả thế giới.

Điển hình như tỷ phú Bill Gates, có bản quyền có sáng chế và phần mềm Microsoft là một đóng góp rất quan trọng cho tiến bộ của xã hội. Còn Elon Musk, với ô tô Tesla và với nhiều dự án khác như SolarCity cũng có những đóng góp rất là quan trọng. Một nhân vật không thể không nhắc đến đó là tỷ phú Mark Zuckerberg với phát minh Facebook, đóng góp này đã giúp cho hàng tỷ người trên thế giới chia sẽ thông tin, gởi gắm thông điệp cho nhau 1 cách nhanh nhất. Đây là một sự đóng góp sáng tạo và có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực công nghệ.

Năm 2016 được đánh giá là xuất hiện nhiều tỷ phú nhất. Trong danh sách 10 người giàu nhất sàn chứng khoán, mới được công bố có đến một nữa là tỷ phú bất động sản. Những vị tỷ phú này đã không làm giàu nhờ sản xuất và kinh doanh hợp pháp, mà dựa trên tham nhũng, trốn thuế và những hoạt động bất hợp pháp. Họ không đóng góp nhiều cho nền kinh tế, họ cũng không có đóng góp gì vào công nghệ, “họ không có bằng sáng chế, phát minh”, và năng lực cạnh tranh quốc tế của họ “rất hạn chế, thậm chí có thể gây bất ổn về lâu dài. Nếu như những tỷ phú Việt làm giàu theo cách thức của người Do Thái thì nền kinh tế Việt Nam sẽ vượt xa Mỹ.

Kinh tế gia Lê Đăng Doanh cũng cho rằng: “họ là sản phẩm của thể chế hiện hành, của chủ nghĩa tư bản hoang dã”, khác hẳn với Bill Gates hay Elon Musk.

Mừng hay lo về việc xuất hiện nhiều tỷ phú bất động sản Việt Nam

Theo báo cáo Thịnh vượng 2016 (Wealth Report) của Night Frank, hiện Việt Nam có hơn 12.000 tỷ phú đô la tăng hơn 350% trong 1 thập kỷ qua. Riêng trong năm 2015, Việt Nam có 168 người siêu giàu có tài sản từ 30 triệu USD trở lên. Giới siêu giàu ở Việt Nam được dự báo là sẽ tăng 140%, lên tới hơn 400 người trong thập niên tới.

Tuy nhiên, nhiều đại gia trong số này đã không làm giàu nhờ sản xuất và kinh doanh hợp pháp, mà dựa trên việc mua chính sách, quan hệ thân hữu, trốn thuế và những hoạt động bất hợp pháp. Điển hình như những đại gia: Trịnh Văn Quyết, Lê Phước Vũ, Dương Công Minh, Phạm Nhật Vượng, Vũ Văn Tiền, Vũ Quang Hội hay Lương Trí Thìn…

Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cũng nhận định tin về các tỷ phú chưa hẳn tin tốt lành cho nền kinh tế: “Điều đáng ngại nhất là họ ăn chênh lệch giá, họ giàu lên một cách rất nhanh chóng mà họ không có sáng kiến, phát minh, không có đóng góp gì cho sự phát triển của lực lượng sản xuất cả.”

Lách thuế cực kỳ gian xảo

Dự án Thép Cà Ná của ông chủ tập đoàn Hoa Sen đại gia Lê Phước Vũ đã minh chứng cho điều này. Ngành luyện Gang Thép là một ngành công nghiệp gây ô nhiễm, tổn hại nhiều tới hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Với một Formosa chưa tiên liệu được hậu quả môi trường khiến cả Miền Trung và nhân dân cả nước gánh chịu hậu quả nghiêm trọng.

Nay đến dự án thép Cà Ná tại tỉnh Ninh Thuận, mặc dù vấp phỉ sự phản đối quyết liệt của dư luận trong cả nước nhưng chính quyền nơi đây vẫn thông qua dự án và ưu ái rất nhiều. Ông Lê Phước Vũ từng lớn tiếng khẳng định: “Nếu dự án thép Hoa Sen Cà Ná gây ô nhiễm môi trường, sẽ đóng cửa nhà máy và giao toàn bộ tài sản cho Nhà nước; không xả thải một giọt nào ra biển”. Không hiểu ông Vũ căn cứ vào đâu mà tuyên bố mạnh miệng như thế? Trong khi máy móc ông sử dụng là của Trung Quốc, công nghệ làm thép thì lạc hậu không thua gì Formosa đang sử dụng.

Mới đây, tại dự án này ông Vũ đã tách biệt thành 3 công ty, với 3 pháp nhân khác nhau. Chỉ động thái nhỏ này thì ông Vũ thu về khoản tiền “khủng” từ việc cho thuê đất trong 70 năm của dự án lẽ ra phải đóng vào ngân sách nhà nước. Chưa gì ông Vũ đã “lồi đuôi cáo” liệu lời hứa của ông về việc bảo vệ môi trường có giá trị hay không?

Kinh doanh thiếu đạo đức như thế, nếu xảy ra sự cố thì ông có khắc phục hậu quả hay không? Hay lại xin đi nước ngoài chữa bệnh? Nghịch lý thay, ông chủ Hoa Sen thì ngày càng giàu sụ nhờ “chiêu trò” lách tiền thuê đất, người dân nơi đây phải đối mặt thảm họa môi trường của Fomosa thứ 2 đang sắp xảy ra.

Ông chủ Hoa Sen thì ngày càng giàu sụ nhờ chiêu trò lách tiền thuê đất, người dân nơi đây phải đối mặt thảm họa môi trường của Fomosa thứ 2

Tham nhũng “chính sách”

Không những thế, những tỷ phú BĐS tạo mối quan hệ với giới quyền lực bằng cách chia sẻ địa tô như: chênh lệch giá đất, khai thác khoán sản, phá rừng. Họ và nhóm lợi ích xem hệ thống chính quyền như “công cụ” làm lợi cho họ, điều đó gây thiệt hại cho cộng đồng, quốc gia.

Điển hình vụ cao ốc 50 tầng tại Giảng Võ của các tập đoàn: Vingroup, T&T, và Tân Hoàng Minh. Được xem là ví dụ cho trường họp “tham nhũng chính sách”.

Trong khi báo chí trong nước gần như “lãng quên” vụ này thì Facebooker là Nguyễn Anh Tuấn nhà hoạt động xã hội Đà Nẵng đã đi tìm hiểu thông tin. Việc thâu tóm khu đất vàng với giá rẻ của các tập đoàn này là sự mất mát không gian công cộng mà còn làm thiệt hại cho nền kinh tế. Ban đầu khu đất vàng 50 Giảng Võ được quy hoạch làm triển lãm, không thu hút nhà đầu tư. Các tập đoàn Vingroup, T&T, và Tân Hoàng Minh mua với giá chỉ 21,5 triệu đồng/m2. Sau một thời gian chính quyền Hà Nội có chính sách quy hoạch xây chung cư cao cấp, và giá thị trường lúc này là khoản 200–300 triệu đồng/m2.

Như vậy để giành lấy khu đất này, họ đã tung tin giả, làm lũng đoạn thị trường, mua được chính sách làm lợi cho mình. Trong khi người dân phải bỏ ra chi phí rất cao để sở hữu nhà ở khu này.

Quan hệ thân hữu

Những doanh nghiệp bình thường khó mà có thể tiếp cận được chính sách quy hoạch đất đai. Mà chỉ những DN BĐS lớn có “quan hệ thân hữu” mới tiếp cận được. Họ khai thác triệt để mối quan hệ này bằng cách: Họ nhờ giới quan chức thu hồi đất giá thấp, rồi bán lại cho khách hàng giá cao gấp mấy trăm lần, nhờ vậy mà họ trở thành những triệu phú, tỷ phú rất nhanh trong lĩnh vực này.

Phạm Chi Lan nói: “Cái “được” của ngành bất động sản đi kèm cái “mất” của hàng ngàn người dân bị mất sinh kế, tạo nên nỗi bức xúc lớn cho xã hội.”

Vụ sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất của đại gia Dương Công Minh là minh chứng khác. Sân golf này chỉ phục vụ giải trí không đóng góp gì vào sản xuất, cũng như công nghệ, mà gây ra sự bất ổn cho nền kinh tế. Mặt cho máy bay không có chỗ đỗ, sân bay ùn tắc vì quá tải, sân golf của đại gia này vẫn nằm hiên ngang uy hiếp an toàn bay và tính mạng người dân thành phố. Bất chấp lời kêu gọi giao lại đất mở rộng sân bay của cử tri va người dân thành phố, nhưng sân golf của ông vẩn thản nhiên nằm đấy như đang thách thức dư luận và chính quyền sở tại. Trên thế giới xưa nay chưa có tiền lệ như thế này.

Sở dĩ, ông Minh bất chấp dư luận phản đối, bất tuân quy định pháp luật là do có sự hậu thuẫn từ phía quân đội. Nhóm lợi ích thật khổng lồ, nếu đất nước tồn tại những nhóm lợi ích như thế này, liệu nên kinh tế có phát triển hay không?

Gây bất ổn cho xã hội

Theo báo cáo của Bộ Tài Nguyên môi trường năm 2014 có tới 3.300 đơn thư tố cáo khiếu nại, tranh chấp đất đai chiếm hơn 97% trong tổng số đơn tố cáo. Năm 2015 có tới 64% khiếu nại tố cáo. Việc khiếu nại tranh chấp đất đai, chiếm tỷ lệ cao và có chiều hướng phức tạp, gây mất trật tự an toàn xã hội tạo ra dư luận tiêu cực trong xã hội và nhân dân. Điều này gây tốn kém tiền bạc, thời gian khi người dân phải khiếu kiện đòi quyền lợi chính đáng.

Cụ thể vụ dân khiếu nại tại dự án Khu đô thị du lịch sinh thái FLC Sầm Sơn tại thôn Hồng Thắng (xã Quảng Cư thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa của tập đoàn FLC – ông Trịnh Văn Quyết đền bù giá đất không thỏa đáng, giá đất rẻ như “mớ rau, con cá”. 28 hộ dân sẽ phải dời đi, dành 20ha đất cho FLC thực hiện dự án này tiền đền bù GPMB 1,2 triệu đồng/m2, mua đất làm nhà mới 2,5 triệu đồng/m2.

Không chỉ tàn phá rừng phòng hộ, FLC còn cướp đất dân, ngang nhiên ngăn đường, cấm biển không cho người dân đi lại và đánh bắt cá, đẩy người dân vào bước đường cùng. Quá bức xúc, Ông Ngô Hữu Dương (thôn Hồng Thắng, Quảng Cư) nói: “Chúng tôi đã chấp nhận nhường cho FLC rất nhiều, từ đồng ruộng, bãi tôm, bãi biển, rừng phòng hộ, nay chỉ còn cái nhà để ở FLC cũng muốn lấy nốt làm biệt thự. Sao chính quyền lại có thể đứng ra lấy đất của dân với giá rẻ mạt giao cho doanh nghiệp thế được?”.

Theo các thông báo của UBND thị xã Sầm Sơn, hộ gia đình ở vị trí 1 đường Thanh Niên sẽ được đền bù với giá 2,5 triệu đồng/m2; vị trí 2, 3 chỉ có từ 1,2-1,4 triệu đồng/m2. Thực tế, giá thị trường đang giao dịch ở khu vực này, vị trí 1 có giá từ 40 -50 triệu đồng/m2.

FLC không thể hung hăng ngang ngược nếu không có sự hậu thuẫn của chính quyền Thanh Hóa. Nghe đâu giữa Trịnh Văn Quyết và Bí thư Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến có mối “giao tình” thâm sâu, đến nỗi ông này còn chỉ đạo Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá chi tiền ngân sách thu hồi đất cho FLC của Quyết nhanh chóng lấy được đất. Lẽ ra việc đền bù GPMB là của doanh nghiệp và người dân, nhưng ông Chiến đã dùng quyền lực của mình để đẩy nhanh tiến độ. Liệu chăng đây là điển hình cho mối quan hệ thân hữu của giới kinh doanh? Có hay không những phong bì “lót tay” không hề nhỏ để ông Quyết sai khiến cả chính quyền Thanh Hóa?

Trong khi người dân nghèo Thanh Hóa đang rơi nước mắt thì ông Trịnh Văn Chiến – Bí thư tỉnh ủy – Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Chủ tịch Tập đoàn FLC Trịnh Văn Quyết vẫn tươi cười sau mỗi dự án được thi công.

Bị ép giá đền bù, người dân phải chịu cảnh mất nhà mất đất, vào khu tái định cư thì phải mua đất với giá cao. Phải chăng số tiền chêch lệch đó di vào túi của ông chủ FLC Trịnh Văn Quyết và nhóm lợi ích?

Để khép lại bài viết, xin trích dẫn khẳng định của ông Phạm Tất Thắng, Cố vấn Cấp cao Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công Thương): “Sự tăng vọt về số người siêu giàu của Việt Nam lại tỷ lệ nghịch với sự tăng trưởng GDP của đất nước. Nhiều tỷ phú USD nhưng lại không có nhiều người giàu lên nhờ sản xuất hàng hóa có phẩm chất cao, tạo thêm việc làm đóng góp vào GDP hoặc tham gia vào phát triển bền vững. Chính điều này làm cho nợ công tăng cao”.

Giới siêu giàu ngày càng đông, nợ công Việt Nam ngày càng lớn. “Điều này chứng tỏ sự giàu lên của đa số “đại gia” lại làm nghèo đi đất nước.” – ông Thắng kết luận.

Tường Vân

Nguồn BlueVN (tiphu)

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2017

NHỊP BƯỚC THÁNG GIÊNG

              
Đã thấy gió nồm khe khẽ thổi
Nhãn ra hương gọi ong mật xoay vòng
Hoa bưởi trắng tỏa hương thơm dịu
Xuân nhẹ nhàng nhịp bước tháng giêng.

Sang giêng rồi người đi lễ hội
Em ra đồng trỉa lạc vụ xuân
Tiếng rộn rã máy cày vui vồng luống
Thấp thoáng lưng ong trên những cánh đồng

Vẳng đâu đây tiếng trống thì thùng
Những câu hát bến sông, quê mẹ
Con đê làng, xanh mát hàng tre.
Quê hương ơi, tháng năm dâu bể
Vẫn nguyên sơ tập tục lưu truyền.

Bên bến sông, dòng người  lễ hội
Thoăn thoắt thoi đưa những chuyến đò ngang
Mùa xuân đến, tâm người hướng phật,
Có vợi đi một chút lòng trần.

                                        Hưng Yên tháng giêng 2017


5 NGƯỜI QUẢNG BÌNH CHỐNG NHAU, LÀM KHUYNH ĐẢO CHÍNH TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Nguồn: Ngominhblog

khac-thai
TS Nguyễn Khắc Thái
Điều lạ là bất cứ thời kỳ lịch sử nào cũng đều có người Quảng Bình tham gia và làm khuynh đảo chính trường (tôi đã có bài viết về điều này đăng trong tập sách Danh nhân Quảng Bình), nhưng đặc biệt là thời hiện đại, có 5 hào kiệt đứng ở 5 chiến tuyến, chống nhau, làm khuynh đảo chính trường hiện đại.
1. Võ Nguyên Giáp, quê Lệ Thuỷ, đại tướng, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam, phe Cộng sản.
2. Ngô Đình Diệm, quê Lệ Thuỷ, tổng thống Việt Nam cộng hoà, phe chống Cộng.
Ông Giáp và ông Diệm cùng quê nhưng chống nhau quyết liệt ngay từ ngày đầu tham gia chính trường cho đến khi qua đời.
3. Thiền sư Thích Trí Quang, quê Đức Ninh, người đứng đầu phong trào Phật giáo chống chính quyền Ngô Đình Diệm và cũng chính là ngòi nổ để dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền này từ cuộc đảo chính của phái quân sự do Dương Văn Minh đứng đầu năm 1963.
4. Linh mục, giáo sư sử học Nguyễn Phương, quê ở Hoà Ninh, nhà sử học danh tiếng, người một thời biện minh cho chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng cũng là người viết nhiều công trình sử học nổi tiếng ủng hộ sự hiện diện của Mỹ ở Đông Dương thời Pháp thuộc và thời Việt Nam Cộng hoà. Như vậy, ông vừa ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm vừa có xu hướng thân Mỹ, chính là chính quyền bật đèn xanh lật đổ Ngô Đình Diệm. Hiện Thích Trí Quang đã rất yếu, theo phái tịnh khẩu, ở chùa Từ Đàm.
Về sử học, sử gia Nguyễn Phương có rất nhiều công trình nổi tiếng thế giới, trong đó có bộ sách cơ bản là “Phương pháp sử học”. Năm 1975, ngào vượt biên trên một chiếc thuyền nhỏ, may mắn sống sót và định cư ở Mỹ, là giáo sư của nhiều Trường đại học danh tiếng thế giới.
5. Tướng Đỗ Mậu (thực ra ông chỉ đại tá nhưng vị thế trong hàng tướng lĩnh VNCH, quê ở Quảng Thuận. Lúc đầu tham gia chính trường, ông có xu hướng theo Cộng sản, sau đó chuyển sang theo Pháp. Vào miền Nam ông phụ sự đắc lực cho chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng sau đó lại tham gia phái đảo chính của Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm. Sau năm 1975 ông định cư ở Mỹ và viết hồi ký nổi tiếng “Việt Nam quê hương máu lửa” được nhà xuất bản Công an nhân dân tái bản (có lược bớt so với bản gốc). Trong cuốn sách này, ông dành chương đầu viết rất hay về quê hương Quảng Bình với tiêu đề “Quảng Bình quê hương định mệnh”. Ông là nhà chính trị sắc sảo và là học giả uyên thâm. Trong cuốn sách hồi ký, ông phân tích sâu sắc Nguyên nhân sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà mà theo ông, Nguyên nhân chính là tham nhũng dẫn đến chia bè kéo cánh và sụp đổ. He he, tham nhũng và bè cánh sẽ có kết cục như thế.
Khoảng năm 2000 ông có về thăm quê, nghỉ ở khách sạn Phương Đông, khi đó mình đang viết bộ địa chí Quảng Bình nên muốn đến trình ông góp ý nhưng bên công an khuyên là không nên.
Rứa đó, ai cũng nổi tiếng, cũng là anh hùng hào kiệt nhưng người thì cộng sản, người kia thì ngược lại, chống cộng, người này Phật giáo, người kia lại theo Thiên chúa giáo.
Cả 4 người đều chống nhau cả trên quan điểm lẫn hành động.
Không biết ngày nay người Quảng Bình có thế không. Mình nghĩ là có.

Thân phận một trí thức canh tân


Nguồn: Ngominhblog
 MINH PHƯƠNG 
Gia đình ông Ngô Đình Khải. Ảnh: TL
Phòng Khánh tiết trường Quốc Học Huế những năm 1956-1958 từng treo hai tấm biển gỗ sơn son, khắc bản dịch tiếng Việt chỉ dụ vua Thành Thái, Nghị định Toàn quyền Đông Dương về việc thành lập trường. Sau đó vì nhiều lý do, nó trôi nổi trên thị trường cổ vật.
Nhân kỷ niệm 120 năm Quốc Học (1896-2016), đã có những lời đề nghị được gửi tới người có trách nhiệm, những mong nó được trở về chốn cũ, nhưng đáng tiếc không được đáp từ. Khoảng lặng đó giúp chúng tôi lần giở những dòng tư liệu cũ, chợt giật mình trước thân phận một trí thức canh tân yêu nước đầu thế kỷ XX.Trong cuộc tiếp xúc văn hóa, văn minh Đông – Tây ở Huế từ nửa sau thế kỷ XIX, sau nhiều căng thẳng binh biến, vấn đề canh tân đất nước đã được cả triều đình Đại Nam lẫn phía Pháp rất quan tâm. Để giảm sốc sau những động thái vũ lực tang thương, hai bên đã có nhiều giải pháp thăng bằng, hướng tới canh tân xứ sở, nhất là từ văn hóa và giáo dục. Tinh hoa Hán học truyền thống kết hợp Tây học đã đem lại cho văn hóa Việt Nam sức sống mới, góp phần đưa đất nước hội nhập với thế giới hiện đại.
Vấn đề then chốt chính là ở tư tưởng và tinh thần yêu nước của vua Thành Thái khi biết chọn chỗ dựa phù hợp cho sứ mệnh canh tân nước nhà, đặc biệt là đội ngũ quan lại trí thức Tây học thuở ban sơ như Nguyễn Hữu Độ, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài… Nhờ đó mới xúc tiến mở trường Quốc Học (nam sinh) và Đồng Khánh (nữ sinh) – giáo dục phổ thông; rồi Trường Kỹ nghệ thực hành, Trường Canh Nông – đào tạo ngành nghề chuyên nghiệp…
Ngày 17 tháng 9 năm Thành Thái thứ 8 (23.10.1896), nhà vua ban dụ mở trường Quốc Học, nhấn mạnh tinh thần giáo dục quốc gia trong bối cảnh xã hội mới cần chú trọng sự liên tục, hài hòa giữa Cựu học và Tân học với nhiều bộ môn khác nhau, của nhiều nước để mở rộng quan hệ bang giao quốc tế. Sự học do vậy hướng đến việc nắm bắt kiến thức và hoàn thiện kỹ năng xử lý hiệu quả công việc hành chính, điều hành đất nước. (Công báo Đông Dương, số 11, phần 2, tr. 1453-1458). Ngoài việc duy trì nền tảng sâu rộng, uyên thâm của Cựu học, môi trường giáo dục cần cập nhật, tiếp thu văn minh phương Tây để bổ sung sự mất cân đối đó.
Trường Trung học Quốc gia – Quốc Học được thành lập tại Huế, giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Pháp, chữ Hán. Hiệu trưởng do Hội đồng Cơ mật chuẩn thuận, Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm, được trực tiếp liên hệ với Khâm sứ, Hội đồng Cơ mật và các Bộ. Triều đình Huế chịu chi phí nhân sự và xây dựng: tòa nhà chính, các lớp học, nhà ở, lương bổng, bồi dưỡng nhân sự, trợ cấp học sinh.
Điểm đặc biệt ở đây là vai trò tiên phong quan trọng của nhân vật lịch sử Ngô Đình Khả, vị Hiệu trưởng đầu tiên của Quốc Học và là người Việt duy nhất đảm đương trọng trách này trong giai đoạn 1896-1945. Văn bản số 908 ngày 6.11.1896 của Khâm sứ Trung kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương cho biết sau khi có ý kiến chuẩn thuận của Hội đồng Phụ chính về chức danh Hiệu trưởng Quốc Học, quan Khâm sứ vinh dự giới thiệu ông Ngô Đình Khả, 40 tuổi, thông ngôn chính, một người có uy tín xứng đáng, với tư cách mẫu mực và kiến thức sâu rộng, tư duy vững chãi. Ông từng là thông ngôn cho Tổng trú sứ và được ông P.Rheinart đánh giá cao, luôn được Khâm sứ Trung kỳ tin tưởng. Bước vào hoạn lộ, ông được triều đình Huế phong Thái Thường Tự Khanh, hàm chánh tam phẩm… nên hội đủ tư cách, trí tuệ để đảm đương trọng trách điều hành một ngôi trường tân tiến đương thời, và “không thể có sự lựa chọn nào tốt đẹp hơn”.
Công trình được xây dựng và chính ông Khả được giao trọng trách tổ chức việc giảng dạy, trở thành Hiệu Trưởng đầu tiên (BAVH, 1942, tập III, Nxb Thuận Hóa, 2015, tr. 493-510). Không chỉ có vậy, khi làm quan Nam triều, duy nhất ông dám chống lại người Pháp khi vua Thành Thái bị bức hại và dân gian Huế đến nay vẫn lưu truyền câu ca: “đày vua không Khả…”.
Trong bối cảnh vỡ ra của xã hội truyền thống Việt Nam, cuộc đụng độ rồi giao lưu, tiếp xúc văn hóa, văn minh Đông – Tây diễn ra tất yếu trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh đời sống xã hội. Ở đó, giáo dục đào tạo được coi là một vấn đề đặc biệt quan trọng gắn liền khát vọng, xu hướng canh tân từ triều đình Huế và nhu cầu xây dựng, phát triển xứ Đông Dương của người Pháp, mà Quốc Học, có thể coi là trường hợp điển hình. Phát huy tối đa sở trường, giảm thiểu sở đoản từ trong di sản truyền thống, kế thừa tinh hoa văn minh phương Tây phù hợp, để canh tân đất nước từ giáo dục đào tạo, là sứ mệnh, đặc điểm then chốt, bài học lịch sử cốt yếu từ Quốc Học.
Điểm đáng tiếc trong chu kỳ trăm năm, từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX, quá trình tiếp xúc văn minh phương Tây diễn ra mạnh mẽ nhưng đội ngũ quan lại trí thức chưa đủ mạnh, trở thành đa số để chuyển hóa trọn vẹn cuộc canh tân. Đầu thế kỷ XX, dư chấn của cuộc cách mạng phản đế phản phong đã gạt bỏ nhiều truyền thống dân tộc. Tính chính thống, ở nhiều trường hợp, càng làm nổi bật điều đó. Đài Chiến sỹ trận vong ở Huế là sản phẩm của một thời “thực dân”, lại chưa được công nhận là di tích nên bị bỏ qua, xem nhẹ. Nhân vật trí thức Tây học, vị hiệu trưởng Quốc Học đầu tiên, người Việt duy nhất từ năm 1896-1945, vị quan yêu nước Ngô Đình Khả và lăng mộ của ông vẫn ít được biết đến, nằm lặng lẽ, lạnh lẽo ở đồi Phủ Cam.
Lịch sử Việt Nam nổi bật tính bao dung, hòa hợp, giúp xóa bỏ trở lực, hòa giải mọi ngăn cách cho khát vọng thái hòa từ sức mạnh cố kết lòng người, bồi bổ phong khí quốc gia. Nhìn nhận phiến diện, bỏ qua nhiều trang sử quan trọng với công – tội phân minh, rõ ràng là hiện nay, chúng ta đang rất cần một thái độ ứng xử khoa học, nhân văn phù hợp, mới có thể phát triển.
( Nguồn: Lao Động)

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2017

NHỮNG LỜI MUỘN CHO NGÀY LỄ TÌNH YÊU


Em!
Tình yêu dẫn con người tới hạnh phúc ngập tràn
Anh run rẩy khi chạm làn da em
Hòa tan trong em…
Xung quanh không còn thực tại.
Đau đớn tan tành khi xa em.
Không có em, anh trống không đổ vỡ.
Tình yêu dẫn mình đi tới vị tha, bao dung, hy sinh cao cả
Dẫu gian khổ khó khăn
Xa xôi cách trở
Dẫu quanh ta độc ác lan tràn.

Si mê, cuồng tín có thể làm cho ta mù lòa
Mưu mô xảo quyệt
Gian ác hại người
Giết người vẫn luôn nghĩ có nhân.

Em!
Chúng mình có trái tim yêu.
Cứ hồn nhiên như cây cỏ.
Hãy cho anh say em
Tan trong em
Trong tình yêu với minh triết cuộc đời

Hưng Yên tháng 2 năm 2017

Lịch sử đảo chiều: Mao Trạch Đông thắng 1 trận, Tưởng Giới Thạch thắng toàn cuộc

Nguồn:Phamvietdaoblog


Lịch sử sẽ chứng minh – Tưởng Giới Thạch – vị Tổng tư lệnh từng bại trận đã tạo nên tác động vĩ đại đến Trung Quốc hiện đại, hơn là “vị cha già dân tộc” lừng lẫy Mao Trạch Đông.

Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Bài chọn lọc,
Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. (Ảnh: Internet)
Trung Quốc nằm ở trung tâm địa khu chính trị, quyết định tình thế chiến tranh hoặc bình yên cho khu vực Đông Nam Á. Từ trước đến nay, người dân nước này hết sức ngợi ca Mao Trạch Đông, bởi cho rằng ông chính là người thống nhất Trung Quốc, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng hỗn loạn của chiến tranh và trở thành cường quốc thế giới.
Sau nhiều thập kỷ kinh tế phát triển với tốc độ chóng mặt, và chỉ mới bắt đầu có dấu hiệu giảm sút trong thời gian gần đây, người ta không thể không tính đó là kết quả từ nền tảng chính trị của Mao. Tuy nhiên, xét cho cùng, Mao Trạch Đông không phải là nhân vật quan trọng nhất của Trung Quốc thế kỷ 20. Mà chính là người đàn ông từng bại trận dưới tay Mao, và là người mà trong suốt cuộc nội chiến những năm 1940, đã bị các thế hệ nhà báo và giới trí thức phương Tây thường xuyên dè bỉu: Tưởng Giới Thạch.
Hình tượng của Mao bắt đầu suy giảm trên chính trường quốc tế sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1990, rồi đến hàng loạt cái chết của những người cộng sản. Trong số những hệ tư tưởng thời kỳ hậu Chiến Tranh Lạnh, chủ nghĩa Mao giờ đây đã lộ rõ sự tàn ác kinh hoàng không kém gì chủ nghĩa phát-xít.
Đồng thời, nó đã đẩy hàng chục triệu người đối mặt với cái chết một cách bất đắc dĩ, bởi những chính sách mà chủ yếu là nạn đói do chiến dịch Đại Nhảy Vọt trong những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Có thể nói số người chết còn nhiều hơn những người bị giết bởi Adolf Hitler hoặc Joseph Stalin.
Tất nhiên, tại Trung Quốc, việc tôn kính Mao như một vĩ nhân vẫn kéo dài khá lâu, ngay cả sau khi hệ tư tưởng Mác-xít đã bị vứt bỏ. Tuy nhiên, giai đoạn này cũng sẽ kéo dài không lâu nữa. Bắc Kinh hiện tại không còn lựa chọn nào khác ngoài việc theo đuổi 1 chiến dịch cải cách kinh tế toàn diện, dần dần loại bỏ tàn dư của ách cai trị độc tài. Thậm chí, dân thường và tầng lớp trung lưu cũng vùng lên để thoát khỏi sự độc tài toàn trị này. Điều đó khiến người ta tưởng tượng đến một ngày không xa, chính sử sách Trung Quốc sẽ tìm Mao để luận công tội.
Trong khi đó, Tưởng Giới Thạch lại là nhân vật lịch sử cần được mổ xẻ và đánh giá lại dưới góc nhìn của tầng lớp tinh hoa phương Tây. Năm 2003, Jonathan Fenby, cựu biên tập viên của tờ Observer London, đã xuất bản cuốn tiểu sử xét lại “Tưởng Giới Thạch: Tổng tư lệnh Trung Quốc và Quốc gia bại trận”. Fenby phần nào không thừa nhận những hiểu biết được mặc định về Tưởng – trong đó cho rằng ông này là một nhà cai trị tham nhũng và vô dụng, người do dự chần chừ trong cuộc chiến chống Nhật, dẫu đã nhận được sự giúp đỡ đáng kể từ Hoa Kỳ trong Thế chiến II, và cuối cùng đã để mất Trung Quốc về tay Mao bởi sự kém cỏi của mình.
Sau đó, năm 2009, Jay Taylor, cựu viên chức phụ trách về Trung Quốc tại Bộ Ngoại giao Mỹ, người sau này là nghiên cứu sinh tại Trung tâm Fairbank, chuyên nghiên cứu Trung Quốc học tại Đại học Harvard, đã tiếp nối việc xét lại ráo riết vai trò lịch sử của Tưởng trong cuốn“Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch và cuộc đấu tranh cho Trung Quốc hiện đại”, đã xóa bỏ rất nhiều định kiến về nhà sáng lập Đài Loan.
Cả hai tác giả đều quy trách nhiệm cho các phóng viên và quan chức Bộ Ngoại giao có mặt khắp Trung Quốc vào thời Thế chiến II, khi những người này đã tiếp nhận hình ảnh tiêu cực có phần phóng đại về Tưởng Giới Thạch. Nhân vật quan trọng trong câu chuyện này là tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Trung Quốc, Trung tướng Joseph W. Stilwell.
Stilwell, người đơn thuần là không ưa gì Tưởng, và chỉ coi Tưởng là kẻ tham nhũng, bất tài. Sau lưng ông gọi Tưởng là “Peanut” (kẻ nhãi nhép, thấp kém), và những lời chỉ trích này của ông đến tai các cánh phóng viên cùng các quan chức ngoại giao, từ đó họ bị Stilwell dẫn dắt rồi tạo nên cái nhìn phiến diện của Mỹ về Tưởng Giới Thạch.
Một yếu tố khác đằng sau hình ảnh tiêu cực của Tưởng là các bài báo đánh bóng tên tuổi của Mao và thân tín của ông. Theodore H. White của tờ Time đã viết trong cuốn hồi ký năm 1978 “Tìm về lịch sử: Chuyến phiêu lưu cá nhân” đã miêu tả “tình bạn nồng thắm” giữa Mao và vị Thủ tướng xuất chúng Chu Ân Lai, trong khi với Tưởng, ông đã viết “đạo đức cứng nhắc … phản bội như loài thú, tàn bạo như lãnh chúa và chẳng hề biết gì về yêu cầu của một nhà nước hiện đại”.
Nhưng theo các tài liệu trong nghiên cứu của Taylor, Tưởng Giới Thạch từ nhỏ đã thấm nhuần ý thức hệ Nho giáo, một thế giới quan nhấn mạnh trật tự chính trị, tôn trọng gia đình và hệ thống cấp bậc, ổn định. Đây là hệ thống tư tưởng hiện thân cho nhân cách của Tưởng, cuối cùng đã đạt được thành công xuyên suốt Đông Á và chính Trung Quốc, đảm bảo cho sự thịnh vượng của khu vực trong nhiều thập kỷ; ngay cả khi chủ nghĩa cộng sản của Mao và Chu được một số nhà báo phương Tây ca ngợi vào thời kì này, cũng bị thất sủng hoàn toàn.
Tưởng thường bị cáo buộc là lũng đoạn quyền lực, nhưng lựa chọn duy nhất vào thời đại mà ông đang sống, đó là phải trở thành nhà tư tưởng chuyên quyền, như Mao. Tưởng không theo đuổi sự hoàn hảo, nhưng ông cũng không phải là người cực kì tệ hại như những lời gièm pha của báo chí và Bộ Ngoại giao. Việc áp dụng chuẩn mực phương Tây để đánh giá thời đại hỗn độn vào đầu và giữa thế kỷ 20 tại Trung Quốc, đã làm cho Tưởng bị bài xích.
Dưới thời Tưởng vào những năm 1930, sức mạnh và quyền cai trị của chính quyền trung ương lớn hơn so với ở bất kỳ thời điểm nào tính  từ giữa thế kỷ 19. Như Fenby viết, quyền uy Quốc Dân Đảng của Tưởng chiếm lĩnh đất nước này, “là thời kỳ hiện đại hóa mà Trung Quốc chưa từng thấy trước đây … có một sự khai phóng về tư tưởng, văn học, nghệ thuật và điện ảnh”, thậm chí sự trấn áp được Quốc Dân Đảng sử dụng cũng mờ nhạt hơn so với những gì Cộng Sản thực hiện sau này.
Trong khi nhà báo Mỹ và các quan chức bị Stilwell dẫn dắt, đã tin rằng Tưởng muốn tránh cuộc chiến chống Nhật để trữ vũ khí cho việc chống cộng sản sau đó. Tuy nhiên, trong chiến dịch Miến Điện 1941-1942, quân đội của Tưởng đã thiệt mạng và bị thương 80.000 người. Kết thúc 14 năm chiến tranh với Nhật Bản, Trung Quốc có 3 triệu quân nhân thương vong, thì hết 90% trong số đó là quân của Tưởng. Trong khi đó, chính quân cộng sản của Mao mới là lực lượng thực thi chính sách mà Tưởng bị cáo buộc: đó là né tránh cuộc chiến với Nhật Bản để dồn sức chống lại Quốc Dân Đảng về sau này.
Khi Tưởng rút lui đến Đài Loan vào năm 1949, ông tổ chức lại đảng của mình và tập trung khai sáng chủ nghĩa độc tài mới: chế độ chuyên chính với sự cai trị bằng trách nhiệm và lòng tốt. Ông ban hành chương trình cải cách ruộng đất rộng rãi, nhấn mạnh việc giảm mạnh tô thuế ở nông thôn. Cải cách ruộng đất của Tưởng tương phản với việc tịch thu đất đai trong cuộc cách mạng của Mao, vốn đã dẫn đến hơn 1 triệu người chết trong đầu những năm 1950. Giai đoạn này thực sự đã chứng minh ranh giới lớn giữa học thuyết chủ nghĩa không tưởng của Mao và hệ tư tưởng Nho giáo của Tưởng: hiếm khi có khoảng khác biệt quá sâu rộng giữa một chính phủ chuyên chính này và một chính phủ chuyên chính khác.
Cuối cùng con đường của Đài Loan kể từ đó hướng tới sự thịnh vượng và dân chủ. Trong khi đó, Trung Quốc ngày nay ngày càng trở nên độc đoán (từng đợt từng đợt một) và ngày càng gia tăng tập trung hóa. Họ từ lâu đã bỏ đi cái ruột chủ nghĩa Mác – Lênin của Mao và chỉ giữ lại bộ áo để tồn tại. Nếu Trung Quốc tiếp tục theo hướng này, ngay cả khi thắt chặt quan hệ kinh tế và văn hóa gần gũi hơn với Đài Loan, Tưởng sẽ trở lại là một nhân vật lịch sử quan trọng hơn Mao.
Trong khi chính quyền ở Bắc Kinh sử dụng chủ nghĩa dân tộc – với sự tán thành của Mao – như một phương thức gia tăng tình trạng kinh tế hỗn loạn, thì một câu chuyện đáng quan tâm hơn là nền văn minh Trung Quốc chân chính lại đang được ủy thác cho vùng đất vốn không có danh phận chính thức, đất nước Đài Loan đang thực thi mô hình lao động ưu việt.
Lịch sử là một cuộc chiến về hệ tư tưởng. Nho giáo đã chiến thắng chủ nghĩa cộng sản. Chế độ dân chủ và chủ nghĩa độc tài khai sáng đã chiến thắng chủ nghĩa độc tài toàn trị. Và sự nhân văn của Tưởng, tuy không hoàn hảo nhưng trong tâm trí người Trung Quốc, nó sẽ chiến thắng sự tàn ác truyền kỳ của Mao.
Tân Dân, theo FP

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt

Nguồn: Ngominhblog

  •   TRẦN GIA NINH
Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.
Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?
Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.
Bách Việt là ai và ở đâu?
Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.
Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).
Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.
Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.
Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.
Sách Lộ Sử của La Bí (1131 – 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Hán Hóa Bách Việt – Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán
Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô – Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 – 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 – 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.
Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc – Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 – 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.
Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô – Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.

Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh – tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).
Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán
Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam… gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…
Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.
Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần – Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.
Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh – Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.
Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.
Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.
Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.
Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.
Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.
Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?
Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 – Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 – Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.
* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.
* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!
Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:
* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.
* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.
Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:
* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.
* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.
* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).
Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.
2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.
3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.
Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.
Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.
Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.
Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần… Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…
Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1
CHÚ DẪN
1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml
越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?”  http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html
2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.
3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。
The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina
5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)
6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.
7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.
8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.
9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚(Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).
10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.
11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.
12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói  đóng khố cởi trần).
13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。”  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.
14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).
#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.
16 叶榆水
17岱依人
18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.
19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.
20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.
21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo  sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒(bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!
22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書 thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.
23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.
24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).
25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.
#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,  thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên
27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? – http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.
28 Đại Việt sử ký toàn thư – NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.
* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.