Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

LỜI NGUYỀN



Truyện ngắn của Hồ Ngọc Vinh ( truyện ngắn này mới được sửa lại)
Không biết tự bao giờ, làng Thượng Cát truyền lại từ đời này sang đời khác lời nguyền. Tôi tạm gọi đó là lời nguyền tình yêu. Trai gái làng Thượng cát cấm kị lấy trai gái làng Hạ. Nếu họ lấy nhau, vợ chồng sẽ như đũa gãy đôi, gia đình ly tán, con cháu bại hoại.
Ông Bổn vốn là nghệ nhân dân gian Trống quân kể với tôi rằng. Sở dĩ có lời nguyền đó là vì tranh chấp đất đai giữa hai làng ở mạn đồng sông xuôi. Thời gian phong kiến trước đây, dân hai làng với mã tấu, giáo mác gậy gộc nhiều lần xô xát. Tham gia vào ẩu đả có thanh niên, thiếu niên, dân binh, thậm chí cả các cụ già. Những trận chiến đất đai như vậy, thậm chí dẫn đến đổ mảu, chết người, song căn nguyên vẫn không được giải quyết triệt để. Làng Thượng Cát cho rằng làng Hạ đã lấy mất vài Hec ta ruộng của họ. Làng Hạ cho rằng yêu sách của Thượng Cát chẳng có cơ sở nào. Vùng đất tranh chấp ấy, khó có thể canh tác vì có trồng cây cũng bị phá nát.
Bên cạnh đó, làng Hạ còn có tục giữ gái làng. Trai làng khác đến tán tỉnh gái làng Hạ không khéo bị đánh sứt  đầu, mẻ trán.
*
Tôi ngồi ở hàng ghế đầu phía trái rạp. Cạnh tôi là Vượng. Phía trước mặt là sân khấu dựng tạm. Mặt sàn được ghép bởi những tấm gỗ mỏng, phủ thảm xanh. Trên mặt phông hậu của rạp nổi bật hàng tít: “ Lễ đón nhận bằng công nhận làng văn hóa  Thượng  Cát.”
Lúc này trên sân khấu, gần hai chục phụ nữ độ tuổi 30- 40 trong trang phục áo mớ ba màu vàng đang xòe những cánh quạt nhịp nhàng theo nhịp điệu chèo. Lời  của bài hát: hát mừng quê ta nay đổi mới…i…i…a. Là hát mừng quê ta nay đã đổi mới.. Hỡi chị em ơi! Ta mừng là…
Vượng quay sang nói với tôi: Đây là tiết mục tự biên, tự diễn  của đội văn nghệ của làng.
Nhìn những đôi chân hôm qua hôm kia còn lấm bùn, nay chưa hết vụng về trong nhịp trống, trong tiếng nhạc, bất giác tôi nhớ lại lời bố tôi kể: “ Ngày trước, mẹ con  hát chèo hay lắm. Bố yêu mẹ cũng bởi  say mê giọng hát chèo  của mẹ”.
Lần theo những câu chuyện của nghệ nhân Bổn và chuyện của bố, tôi viết truyện ngắn này
*
Dòng  dõi ông Tân vốn làm nghề đi thuyền. Thuyền vận tải chứ không phải thuyền chài.  Nghề đi thuyền nay đây mai đó, sông nước và con thuyền là nhà. Gia đình mấy thế hệ sống trên  thuyền lênh đênh ở khúc sông nọ tới khúc sông kia, đời này, sang đời khác vẫn vậy. Đến đời ông Tân, theo chính sách mới của nhà nước, gia đình được chia ruộng, bởi vậy họ vừa đi thuyền, vừa làm ruộng.
Ông Tân có một con thuyền vận tải bằng gỗ, trọng tải vài chục tấn. Tài sản tích cóp của cả một đời sông nước, song cạnh đó, cũng làm nghề nông. Tập được sinh ra trên thuyền. Ông Tân là người đỡ đẻ. Khi bà Tân trở dạ, biết không thể chờ đợi lâu, không thể hy vọng có nữ hộ sinh, ông đã sai người hơ con dao vẫn dùng để mổ cá trên lửa, dùng nó cắt rốn cho con. Mới hơn năm, Tập đã lon ton trên mặt thuyền, vài tuổi đã  bơi lội như con dái cá   trên sông. Tập say mê sông nước như cha mình. Cậu có thể nghe tiếng con sông thở, tiếng con sông trở mình mỗi lần đổi trời. Ông Tân đã huấn luyện Tập đi thuyền ngay từ  lúc Tập hơn chục tuổi. Ý nguyện cho con tiếp quản  thuyền và  nghề kinh doanh vận tải thủy. Các công việc như cầm lái, cột dây buồm, neo và néo buồm. Khó nhất là việc điều khiển phối hợp các cánh buồm lợi dụng sức gió và lực của dòng chảy để con thuyền xuôi ngược điệu nghệ trên mặt sông... Sau khi học xong lớp 7, Tập xuống thuyền, nhanh chóng trở thành lao động chính. Tập cao lớn, vạm vỡ, da bánh mật, chân đi vòng kiềng, giọng nói trầm đục, tỏ rõ là một thanh niên có bản lĩnh.
Từ bao năm nay, cứ hai năm một lần, làng Thượng Cát tổ chức lễ hội. Tập được chọn chèo thuyền cùng với đám giai tế trong làng. Anh nào anh nấy  to cao, khỏe khoắn, da bánh mật, gọn gẽ oai vệ  trong trang phục áo lậu “ áo lính ngày xưa”.
Buổi sáng, sương mờ bao phủ cả mặt sông. Dòng sông những ngày đầu xuân mặt nước gợn nhẹ. Đôi  bờ cánh bãi, ngô non ngang lưng người xanh biếc một màu.
Dân làng Thượng cát, dân làng Hạ, dân các làng lân cận đứng kín bờ sông xem rước nước. Trong đó có Liên. Tiếng trống dồn, tiếng người cười nói huyên náo, không khí tưng bừng vui của ngày lễ không làm cho Liên chú ý tới nhiều. Đôi mắt cô tập trung vào một thanh niên đang dang rộng cánh tay mạnh mẽ khỏa  chèo. Con thuyền xé dòng ra giữa sông trong tiếng rúc của tù và. Lòng cô xốn xang những cảm xúc yêu đương.
Thật ra, Tập biết Liên từ lâu. Mỗi lần đội văn nghệ làng Hạ diễn chèo Tống Chân Cúc  Hoa, Thị Mầu lên chùa…Tập đều có mặt. Liên với giọng hát chèo trong trẻo, truyền cảm cuốn hút anh. Khuôn mặt tròn, mái đầu vấn khăn, đôi má phớt hồng của Liên làm say đắm hồn anh.
Tiếng gọi của tình yêu  quyến rũ khiến hai người tìm đến với nhau tự tình bên ghềnh. Dòng sông lúc êm đềm róc rách chảy, lúc cuộn sôi réo. Mảnh trăng và sao trời trôi theo làn nước, lấp lóa.
Tập nói: Anh đã để ý đến em từ lần đầu tiên xem đội văn công làng Hạ diễn chèo. Em vấn khăn. Những làn điệu chèo em hát thật mềm mại. Tà áo mỏng bay lả lướt theo điệu múa. Từ bấy giờ cứ ở đâu có diễn chèo là anh lặn lội đi xem cho bằng. Đặc biệt là các vở diễn trong đó có em thủ vai. Anh rất yêu em!
Liên nói trong tiếng thở hào hển:  Em cũng rất yêu anh! Người em yêu phải cao lớn hơn em một cái đầu, phóng khoáng, mạnh mẽ và giàu lòng tha thứ. Người yêu em phải là chỗ dựa cho em trong gia đình. Gặp anh em thấy anh khỏe mạnh, giàu cảm xúc, chân thành thế là em yêu. Có thể đấy là số phận. Ông trời xe duyên đôi lứa.
*
Nghe  tin  Tập yêu Liên, mặc dù chưa bao giờ gặp cô gái, ông Tân đã không thích rồi. Lòng không an vì con, lúc nào cũng có cảm giác buồn bực thường trực.  Ngồi rót một chén chè đặc , nhấp giọng, khuôn mặt lộ vẻ bực bội, Ông Tân gằn giọng nói với Tập: làng này không thiếu con gái. Sao phải tìm phụ nữ làng Hạ?
Bà Tân ngồi cạnh chồng, với lấy cối vôi, dùng tăm vớt ít vôi bôi lên lá trầu, đưa lên miệng nhai. Khuôn mặt lộ vẻ đau đớn nói, bà đắn đo nói:  mấy ngày nay bố con không ngủ được! Mẹ cũng vậy. Bố mẹ đã rắp ranh cho con con gái nhà ông Từ. Nó xinh xắn, nết na, nhu mì lam làm.
Ông Tân: Con không biết tới lời nguyền ư. Từ bao lâu nay, trai gái làng Thượng Cát mấy khi xây dựng với trai gái làng Hạ. Đấy trông gương nhà Nụ. Người lớn nói không nghe, về làm dâu làng Hạ. Chồng chết. Không ở được với gia đình chồng, mang con về nhà mẹ đẻ. Nay ốm mai đau. Tiền không có mua thuốc. Cả đời sống trong nghèo khó cơ cực. Gia đình nhà Khương cũng thế đấy.
-         Bố mẹ đã dạy con. Làm người, ăn ở phải có đức. Con và Liên đã yêu
nhau. Con không muốn nuốt lời. Con không thay đổi đâu!
Ông Tân nói vẻ thất vọng: Thế là anh lú lẫn mất rồi. Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống. Bố mẹ nó là cái đồ phường chèo. Nói anh hay. Dân ca hát nó hay lăng nhăng lắm. Nghe nói con bé lúng liếng  lắm, bắt cá nhiều tay. Dân gian có câu lấy đĩ về làm vợ, hơn là lấy vợ về làm đĩ. Anh hiểu không?
Bà Tập: hay là anh ăn bùa, ăn bả của con bé rồi.
Ông Tập: làm gì có bùa với bả. Chỉ có con mình nó ngu thôi.
Tập: làm gì có lời nguyền cơ chứ. Bố mẹ cổ hủ lắm. Bố mẹ chỉ muốn con lấy con nhà giàu. Bố mẹ muốn con lấy người con yêu hay lấy người bố mẹ thích.
Bà Tân: bố mẹ chỉ lo cho con thôi.
Tập: Vậy thì bố mẹ mặc kệ con đi. Nếu không lấy Liên, con sẽ ở vậy suốt đời.
Thấy không thuyết phục nổi con. Nói nữa dẫn  tới tranh cãi. Tình cảm cha mẹ với con có thể bị tổn hại. Ông Tân đành nuốt cục giận vào lòng. Bà Tân khuôn mặt ỉu xìu, ngồi yên lặng, nhìn ra ngoài trời, chẳng thiết ngó ngàng tới việc gì.
Từ hôm đó, gặp ai ông Tân cũng nói như để xả bực tức, cáu giận: Ông Tân nói với ông Ban: Thằng con nhà tôi yêu con bé cái Liên ở làng Hạ. Nói mãi, phân tích cho nó mãi, nhất định nó nghe. Nó còn bảo mình cổ hủ, mình tham tiền. Lúc nào cũng đòi môn đăng hộ đối. Giờ con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó. Không như xưa kia nữa.
Ông Bạn: Chúng nó yêu nhau rồi, khó tách lắm. Chặn là phải chặn ngay từ lúc ban đầu. Bây giờ chúng say nhau. Nói nhiều nó hận mình. Thôi thì cứ ưng thuận cho chúng lấy nhau. Cuộc sống của chúng, chúng lo.
Gia đình ông bà Hường cũng không đồng ý cho Liên tìm hiểu Tập. Một phần vì lời nguyền. Phần khác không muốn con gái thành hôn với người có nghề đi thuyền. Bà Hường nói với con gái: người ta có câu:  ai ơi chớ lấy thuyền chài…. Mẹ còn nhớ ngày bé, cứ thấy thuyền  là mẹ cùng  chúng bạn trêu trọc:  thuyền ai đi ngược, đi xuôi. Thằng nào bẻ lái , mút…cho tao. Mẹ không thich cái nghề đó.
Ông Hường: cái nghề sông nước gian nan lắm, vất vả lắm. Vậy mà cũng chỉ vặt mũi bỏ miệng. Có ai làm giàu được bằng cái nghề ấy đâu. Làm vợ người ta, đi thuyền sống với nhau trên thuyền. Bất tiện lắm.
Bà Hường: mày mà lấy nó, thì không mẹ con gì cả! Mày đi theo không. Không có cưới xin gì đâu!
Liên thất vọng tràn trề. Sự tươi tắn trên khuôn mặt mất đi, thay vào đó là gương mặt buồn rầu, đầy âu lo. Không thấy nụ cười duyên như hoa hồng hé nở. Liên loay hoay không biết làm gì để thuyết phục được cha mẹ. Mặc dù bị theo dõi gắt gao cô vẫn ra được chỗ hẹn hò. Mỗi lần như thế, trông thấy anh, cả người cô run lên, đôi chân khuỵu xuống chực ngã. Tập đỡ Liên. Phải lát sau Liên mới trấn tĩnh lại được.
Có lần cả hai phải chạy trốn đám thanh niên làng Hạ. Nghe thấy tiếng chân chạy huỳnh huỵch, tiếng người huyên náo, tiếng gậy va đập vào nhau, họ lẩn xuống phía chân tre, nằm nép vào bờ ruộng. Một vài ánh đèn pin lướt qua. Nhưng rất may không ai phát hiện ra họ. Đợi cho tiếng chân đã  lùi xa, làng xóm yên tĩnh trở lại. Tiếng những con dế bắt đầu kêu ri…..rii..ri, họ mới chia tay.

*
Giặc Mỹ đánh phá miền bắc.  Máy bay Mỹ bắn phá ác liệt cảng Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội. Chúng thả bom nổ chậm xuống sông, ngăn cản tàu bè qua lại. Đã có tàu, thuyền của dân bị chìm vì trúng bom. Chiến tranh ngày càng diễn ra ác liệt ở cả hai miền. Có buổi máy bay Mỹ từng đàn vài chục chiếc gầm rú trên bầu trời, ném bom tọa độ xuống nhà máy, các cơ sở kinh tế, dân sinh, gây chết chóc đau thương cho nhân dân.
Để chi viện cho tiền tuyến, trên trưng dụng thuyền của dân chở lương thực, thực phẩm vào miền trong. Thuyền của gia đình ông Tân đã thực hiện nhiều chuyến vận chuyển gạo xuống Nam Định. Có chuyến thuyền vào tận Thanh Hóa, Nghệ An. Những chuyến đi như thế rất nguy hiểm. Buổi tối thuyền không được thắp đèn, cũng  chẳng  có đèn hiệu nào trên bờ nên rất khó nhận ra luồng lạch, doi cát hoặc các mỏm đá ngầm.  Có lần thuyền phải nằm bờ, chờ tàu bộ đội phá bom nổ chậm ở lòng sông, sau mới tiếp tục hành trình.
Tập ngồi trong khoang thuyền, cầm lái. Đoạn sông này Tập đã quen thuộc đến từng doi cát giữa dòng, từng con ghềnh, từng mỏm đá ven sông.
Giờ là dịp cuối xuân. Hai bên bờ sông, ngô non xanh biếc một màu, những cây gạo đã đơm hoa  đỏ trên cành . Nước sông chuyển đục lờ báo hiệu lũ sắp về. Trên mặt sông, suốt một đoạn từ Làng Cót  đến Hưng Yên, những chiếc thuyền thúng bập bềnh , bập bềnh. Người đánh cá đang thả lưới xuống sông, dõi theo những chiếc phao đang dập dềnh, dập dềnh trôi trên sông nước.
Thuyền xuôi dòng, lại có gió tây nam nên đi khá nhanh. Tay Tập cầm lái, đôi mắt anh quan sát mặt sông,  lái con thuyền tránh những chiếc thuyền thúng, lựa theo dòng, lựa theo hướng gió, cho thuyền xuôi về cửa biển.
Ông Tân cùng mấy thuyền viên tay cầm chão , mắt nhìn cánh buồm, lúc thả dây, lúc níu kéo,  gìm cho cánh buồm no gió. Họ phải phối hợp với nhau thật khéo léo để điều chỉnh vị trí của hai cánh buồm, lúc  nằm song song với nhau, lúc tạo thành một góc. Việc điều chỉnh cánh buồm chủ yếu theo kinh nghiệm căn cứ vào hướng gió, dòng chảy, và sự nhạy cảm tinh tế của người đi thuyền. Con thuyền lúc rẽ sang bờ trái, lúc chếch sang bờ phải tạo thành quỹ đạo chữ chi trên sông.
Hành trình ra cửa biển lần này, thuyền chở gạo và bột mì vào miền trung. Dự kiến hành trình  về , họ mang theo mắm, muối, cá khô. Mỗi chuyến đi như thế kéo dài hàng tháng tính cả thời gian  thuyền phải nằm ở bến bốc hàng.
Lần này về quê, lúc đó đã sang tháng năm. Nước sông Hồng đục ngàu màu đất, cuồn  cuộn đổ về xuôi. Nước sông lên nhanh, mới có vài ngày đã ngập những mỏm đá, ngập ghềnh, tràn lên bãi.
Không thể ngược dòng bằng buồm. Chỉ còn một người trên thuyền dùng sảo đẩy, thuyền viên còn lại xuống bờ kéo thuyền. Tập mặc quần  áo nâu bạc màu. Quần xắn tới gối nhảy từ mạn thuyền xuống nước. Dù đây là đợt nước lên đầu tiên trong năm, nhưng đã có lớp bùn mỏng mới đóng. Bàn chân trong lớp bùn nhão cóng lạnh.  Họ dong chiếc chão được làm bằng xơ dừa dài vài  chục mét, dùng những đoạn chão khác níu vào thân chão chính, thắt vòng , khoác chéo lên vai kéo thuyền đi ngược dòng.
Khó  khăn nhất vẫn là lúc kéo thuyền qua ghềnh. Từ mạn ngược cả dòng nước cuộn chảy xô vào đầu ghềnh sôi réo, gặp vật cản đổi hướng, vật cuộn ra giữa dòng chảy về nam xuôi ra biển. Qua những đoạn ghềnh, người trên thuyền dùng sào chống đẩy thuyền ra xa bờ, người kéo thuyền gò lưng, chân bấm vào từng thớ đất ven sông ra sức kéo, có khi mất cả buổi con thuyền  mới vượt qua được ghềnh nước.
Việc kéo thuyền chỉ dừng lại lúc nửa đêm. Họ neo thuyền ở vật nước, chỗ nước quẩn. Sau khi lặn  ngụp dưới dòng nước mát lạnh, Tập nằm trên mui thuyền, ngắm trăng và sao. Dù mới xuống thuyền, nhưng vốn con nhà nòi nên việc lái thuyền, điều khiển buồm, níu dây kéo thuyền Tập nhanh chóng thành thạo, thậm chí hơn cả những người đi thuyền thâm niên hơn chục năm. Trong huyết mạch anh, dòng máu cuộn chảy là dòng máu của dân đi thuyền có lõi đã nhiều đời gắn bó với thuyền, với những dòng sông miên man chảy.
Mùa hè, song về đêm gió mang hơi nước thổi tới mát lạnh. Chòm sao Bắc đẩu đã ngả về phía tây. Đôi mắt con vịt nhấp nháy, nhấp nháy thâu đêm ở phía tây nam. Nhiều sao quá. Sao mọc chi chít, chi chít như những miếng đa kê. Tập nhớ tới Liên. Khuôn mặt tròn của nàng chẳng cần son phấn cũng phơn phớt  hồng tự nhiên. Đặc biệt xinh khi nàng tỏ  ra bẽn lẽn, hai má đỏ lựng như cà  chua vừa chín trông rất đáng yêu. Tập nhớ lại những đêm chèo do đội văn nghệ làng Hạ biểu diễn. Liên vấn khăn, mặc áo mớ ba màu vàng, bước chân như bay trên sân khấu theo nhịp trống chèo. Thân hình nàng trong trang phục áo mớ ba lúc dướn lên, lúc xoay nghiêng uyển chuyển và gợi cảm. Nàng được đám con trai làng Hạ để ý. Anh chợt thấy cay cay nơi sống mũi.
Đã hơn tháng nay Liên ngóng tin Tập. Hàng ngày, khi ra bãi nhổ đỗ,  Liên thường ghé ra bến , trên vai đôi tòn ten đôi quang gánh, mắt quan sát những chiếc sà lan, những con thuyền buông neo lui về phía dưới ghềnh. Dòng nước sôi réo đầy xoáy cuồn cuộn đổ về xuôi. Vẫn không thấy thuyền của Tập về neo đậu ở bến quê. Liên bỗng lo lắng khi chợt nhớ tới tin trên đài cô vừa nghe. Máy bay Mỹ đánh phá cảng Hải Phòng, ném bom nổ chậm xuống sông. Tàu thuyền của ta qua lại đã bị trúng bom….
Cho mãi tới ngoài mồng, thuyền của Tập mới về tới bến quê. Mặc chỉ độc chiếc quần nâu, ngực vồng lên từng múi cơ vạm vỡ, da bánh mật trông Tập giống như vận động viên thể hình. Anh nhảy xuống bờ bãi, kéo dây neo một đoạn khá dài vào bờ, chọn chỗ đất thịt rắn cắm neo. Anh vội về nhà. Từ bến đến nhà khoảng bảy trăm mét. Xóm chỉ có vài nóc nhà ở lảnh ra một khu riêng vốn của những người dân làm nghề đi thuyền từ lâu đời nay.
Sau hơn tháng trời xa cách, nỗi nhớ nhung dồn lại, nay Tập mới gặp Liên. Chỗ này gần ghềnh nước. Trời tối, vẫn có thể thấy nước sông ngàu màu đỏ, mặt sông rộng ra mênh mang. Tiếng con nước cuộn vào với nhau sôi réo. Chỗ này khuất vắng , không sợ bọn con trai làng Hạ rình rập đuổi đánh.
-         Sao lần này anh đi lâu  thế?
-         Lúc về , nước lên, kéo thuyền ngược dòng vất vả quá!
-         Em cứ lo lo là. Nghe tin, máy bay Mỹ thả bom nổ chậm xuống sông.
Một số tàu thuyền bị chìm do vướng phải bom.
-         Sống chết có số. Anh chẳng chết được đâu. Em đừng lo.
-         Anh lúc nào cũng đùa. Anh Tập! Chúng mình cưới nhau đi!
-         Sao vậy? Có chuyện gì à?
-         Có! Mà thật ra chẳng có chuyện gì. Bố mẹ gả em cho người cùng làng.
Tập sửng sốt: Thật à. Thế bao giờ cưới…
-         Sao anh lại hỏi vậy.
-         Anh không biết!- Tập nói.
          Bất giác nhớ lại câu thơ truyền miệng của dân làng: Ai ơi! Chớ lấy thuyền chài. Lênh đênh sông nước, không nhà,con ngu. Lòng anh dội lên nỗi đau vì lòng tự tôn bị xúc phạm. Song anh không thể nghĩ rằng, cuộc sống của anh sẽ thiếu Liên. Càng yêu Liên, nỗi thất vọng, nỗi đau  càng vò xé anh. Bố mẹ anh tin vào lời nguyền, dứt khoát không đồng ý cho anh lấy Liên. Còn dọa sẽ chết, sẽ từ con, sẽ cấm anh sau này không được nhắc tên các cụ trong các nghi lễ cúng giỗ. Bố mẹ Liên không muốn con gái thành thân với con trai làng Thượng cát, đặc biệt với Tập lại càng không muốn. Ông Hưởng nói với con gái: Làng thiếu gì đàn ông mà mày phải đi tìm hiểu nó. Lấy nó, thà lấy thằng đui què mẻ sứt còn hơn. Nó đi thuyền cả tuần, cả tháng. Bố mẹ nó đi thuyền, mấy đời nay có khá hơn được đâu. Chẳng nhẽ mày thích xuống thuyền cơm niêu , nước lọ.
Lắm lúc Tập muốn quên đi cuộc tình này. Lánh đi. Lánh xa tất cả. Nỗi đau rồi sẽ nguôi ngoai.
Sáng nay, sau những ngày oi nồng, trời bỗng nhiên dịu lại. Phía đông,đông nam, những vụn mây đen dăng dăng trên nền trời. Lác đác có mưa, rồi trời tạnh ngay. Ngần ấy thôi cũng đủ xua tan oi nóng của ngày hè. Thuyền của Tập vẫn nằm ở bến. Mọi người đang chuyển muối, cá khô lên bờ cho các hợp tác xã mua bán, cho tiểu thương ở các chợ.
Tập và Liên quỳ lạy ông bà Tân. Tập nói nhát gừng từng câu, từng chữ. Khuôn mặt nghiêm trang, căng thẳng. Liên có vẻ ngượng ngập, cô không dám ngước nhìn ông bà Tân.
Ông bà Tân sửng sốt, bất ngờ trước hành động này của tụi trẻ. Ông Tân nhìn Liên, thầm nghĩ: Con bé trông cũng kháu khỉnh, nhanh nhẹn. Nhưng nó là con gái làng Hạ. Ông xót con lắm, làm  cha ai không thương con, không xây dựng cho con cơ chứ. Cả đời ông, làm lụng, dành dụm tất cả vì đảm bảo cho cuộc sống của con sau này ổn định, phát triển. Đấy là tình cảm, là trách nhiệm của thế hệ đi trước đối với thế hệ sau. Song ông vẫn nghiêm nét mặt. Trong lòng ông còn có nỗi sợ hãi lớn hơn. Đó là lời nguyền. Từ bao đời nay, cũng đã có đôi vượt qua lời nguyền để đến với nhau, nhưng kết cục đó chỉ là sự tan đàn xẻ nghé; Vợ góa con côi.
Bà Tân giục: Anh chị đứng dạy đi.
Ông Tân: Anh chị nghĩ kỹ chưa. Lâu nay  tôi vẫn trăn trở đau đớn về việc của anh chị. Xét cho  cùng, chúng tôi cũng chỉ vì tương lai, hạnh phúc của con cái mà thôi. Tôi biết, chúng tôi không thể sống mãi để lo lắng cho con cái. Rút cuộc cuộc sống của anh chị sau này thế nào bản thân anh chị phải là người xây dựng. Cha mẹ chúng tôi có ý kiến như vậy. Quyết định vẫn là ở anh chị. Sau này có vất vả thế nào cùng đừng trách chúng tôi.
Gia đình ông bà Hường lâu nay sôi sục vì chuyện của con gái. Bà Hường đứng ngồi không yên, suốt ngày thở dài. Ông Hường lặng lẽ, khuôn mặt ông buồn rười rượi. Đôi lúc ông buột miệng: Trai làng thiếu gì, lại đi yêu cái thằng  thuyền chài, suốt ngày….b..d ..sũng nước. Lại còn cãi bố , cãi mẹ cơ chứ. Thuyền chài, hay thuyền vận tải thì cũng  thế thôi.
Bà Hường thấy con gái một mực cả quyết, thậm chí nhịn ăn lấy làm lo sợ lắm. Không khéo mất con. Bà nói: Thôi! Đất không chịu trời, thì trời chịu đất. Không may nó làm điều gì dại dột bêu cha , bêu mẹ. Thôi! Cho chúng cưới nhau quách đi.
Để tránh tháng ngâu, đám cưới được tổ chức vào một ngày cuối tháng sáu, năm đó. Đã lâu lắm rồi mới lại thấy con trai làng Thượng Cát lấy con gái làng hạ. Đoàn người đón dâu đi trên con đê bối nối giữa hai làng. Cô dâu vận quần sa tanh đen, áo trắng chiết ly, khuôn mặt phớt hồng e ấp rạng ngời hạnh phúc. Chú rể lực lưỡng trong trang phục quần gụ, áo gụ tươi mới.
Tháng 7 năm ấy mưa nhiều. Mưa rơi rả rích vào mỗi sáng, mỗi chiều. Mưa  rơi qua đêm. Bầu trời lúc nào cũng sũng nước. Ngoài sông, nước lên to, ngập hết cánh bãi ven sông vào tới chân đê. Mặt sông nước chảy như thác cuốn theo củi  rều và bèo bọt. Đôi khi nước cuốn theo cả mái nhà tranh ở giữa dòng.
Vào một đêm trước ngày lễ Vulan, bão số 7 ập đến. Cả đêm gió gầm rít, giận dữ bẻ cây cành ném đi các nơi. Gió ào ạt trên cây sầu đông. Gió giằng xé những tàu lá chuối. Gió thốc và nhà giựt những tấm cửa bằng liếp tung hê đi xa. Ở nhà Liên, mẹ chồng cuống cuồng buộc néo lại những tấm cửa liếp, che ngọn đèn dầu cho gió khỏi thổi tắt. Sau đó ngồi bó gối trên chiếc tràng kỷ lòng lo lắng,  mong bão đi qua.
Bà Tân: Lạy Thánh mớ bái  cho chồng con con vô sự. Con lạy Thánh. Con lạy Thánh.
Liên : Gió gì mà ghê thế không biết. Lòng cô đang như có  lửa đốt.
Trong lúc ấy, Ông Tân cùng con trai đang tìm cách neo con thuyền lại ở vật nước. Tập nhảy lên thuyền. Ông Tân quát: xuống thuyền ngay! Xuống ngay. Song Tập vẫn không chịu  xuống bờ. Ông Tân tấp vào bụi tre gần đó nhìn con thuyền đang chao đảo trước gió và sóng. Con thuyền lúc dềnh lên cao, lúc trụt xuống, lúc chao nghiêng, lúc vặn mình kêu răng rắc làm ông Tân hoảng hốt. Trong chốc lát, cột buồm gãy đổ. Con thuyền nghiêng hẳn về một phía. Gió cuốn những tấm phên mui, những tấm gỗ lát mặt thuyền vứt xuống lòng sông. Nước tràn vào lòng thuyền. Nghe đến rắc một cái, con thuyền vỡ ra làm nhiều mảnh. Ông Tân hoảng hốt gọi: Tập xuống ngay đi con. Tập nhảy ào xuống nước, vật lộn với dòng xoáy một lát mới lên  bờ được. Hai bố con cay đắng nhìn con thuyền của gia đình phút chốc tan thành mây khói.
Sau khi bão tan, vợ chồng ông Tân cùng con cái thu nhặt lại những gì còn sót lại của con thuyền. Dây neo, mỏ neo cùng cọc neo. Một vài tấm gỗ tạp. Còn lại nước và gió đã cuốn đi .
Con thuyền là tài sản, là kế sinh nhai truyền thống của gia đinh không còn nữa. Con thuyền là ước mơ của ông, tình yêu của ông  đối với sông nước không còn nữa. Ông đã định giao  nó cho Tập. Nó đã thành thạo  sông nước, đã thuộc từng bãi cạn, từng doi cát trên sông. Bằng con thuyền, vợ chồng nó có thể mưu sinh, đỡ đần ông bà lúc tuổi già. Thế mà ông trời lấy đi của thằng bé. Ông trời không thương người khó!
Việc con thuyền nhà ông bà Tân bị bão đánh tan trong đêm khiến dư luận hai làng ồn ào. Chỗ này, chỗ nọ người ta thêu dệt, đơm đặt: “Đã nói, trai gái hai làng không được lấy nhau. Cứ cố mà lấy. Không tránh được cơn thịnh nộ của thần. Thời nay duy vật, duy tâm cái nào thắng cái nào? Mình người trần mắt thịt sao biết được. Nên cứ tránh đi là hơn.”
Có người thì thầm: con Liên mang họa cho gia đình nhà ông Tân. Đấy chuyện dựng vợ gả chồng khó thế đây. Có con dâu tạo phúc cho gia đình nhà chồng. Có dâu về nhà chồng thì sự cố liểng xiểng.
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Bà Tân buồn ốm nặng hàng tuần. Gia đình đưa bà đi viện tuyến trên nằm hàng tháng trời. Liên chăm sóc mẹ chồng ở viện. Mỗi lần bà Tân nhìn thấy con dâu, là thở dài. Trong lòng bà những tiếng nói thầm ở đâu đó mách bảo: nó là mầm họa. Nó là mầm họa. Điều này bà chẳng dám nói với một ai.
Bà Tân nói với chồng: tôi đã mượn thày thống phá cho chúng khỏi yêu nhau. Vậy mà đùng một cái ông đồng ý cho chúng thành vợ thành chồng. Thật trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Ông Tân cau mày, khuôn mặt đanh lại. Ông nói: bà đừng nghe miệng lưỡi thế gian. Họ đâm bị thóc, chọc bị gậy. Làm gì có thần thánh cơ chứ. Không làm mà có cái ăn à. Chỉ là may rủi thôi.
Chuyện cũng đến tai Liên. Liên đâm lo. Nhưng trái tim mách bảo: Mình không phải là mầm họa. Không ! Không đời nào. Bởi tâm nguyện của Liên hướng  thiện, biết yêu , biết kính, biết nhường. Liên một lòng yêu, vun đắp cho tương lai. Vậy sao Liên có thể là mầm họa cơ chứ. Nhưng nhiều người nửa kín nửa hở làm Liên phân vân, nghĩ: Nhưng biết đâu. Có phải cứ thiện là gặt hái được điều tốt. Có người tích đức vậy mà gặp hết vận xui nọ đến vận xui kia. Có đứa gian manh, cờ dong bạc dài vậy mà cứ ngạo nghễ, cao đạo. Vậy là từ đó Liên tự dằn vặt mình. Trong gia đình chồng, Liên lấm lét, co dúm khổ sở. Chỉ trong  đêm, trên cái phản gỗ, trong vòng tay mạnh mẽ của chồng, bằng sự an ủi của chồng Liên mới vợi đi được chút âu phiền.
Năm 1968, Tập nhập ngũ. Anh được chuyển ra Thủy Nguyên về một đơn vị đặc công nước. Sau hơn năm luyện tập, đơn vị chuyển về Chí Linh tiếp tục đợt huấn luyện.
Trước khi vào nam, được nghỉ phép vài ngày, Tập dọi lại cho bố mẹ mái nhà, mái bếp, lấy rơm trộn bùn trát lại bức vách phía đông gian buồng của vợ chồng anh. Anh luôn tâm niệm làm điều này trước khi đi xa. Bố mẹ Tập đã ngoài sáu mươi. Ông bà đau yếu luôn. Hai đứa em liền kề toàn gái cả. Em trai út còn bé, chưa thể chăm lo việc gia đình.
Anh cùng vợ mang đứa con trai gần hai năm tuổi sang thăm ngoại. Sau mấy năm quân ngũ, Tập rắn rỏi hẳn lên . Từ phong cách, suy nghĩ đến lời ăn tiếng nói đều biểu lộ sự chín chắn cương nghị đậm chất lý tưởng, khiến Liên có cảm xúc hạnh phúc tin tưởng, tự hào ngập tràn.
Hôm Tập trở về đơn vị, chị cùng con tiễn chân chồng tới ga Tía. Chị nhìn theo con tàu hỏa, bàn tay anh vẫy vẫy.. cho đến khi tàu khuất vào chỗ rẽ. Lúc đó nước mắt của thương nhớ mới lăn dài trên má chị. Chị dụi mặt với nước mắt thương yêu vào mặt con, rồi bồng con ra về.

*

Hơn năm sau Liên được tin chồng hy sinh ở mặt trận phía nam. Người cùng đơn vị trở về nói rằng, một quả pháo nổ  giữa đội hình đơn vị khi họ hành quân ra sông Tiền. Trong ánh chớp loe lên, và tiếng nổ đinh tai nhức óc của các loạt đạn pháo, tôi nhìn thấy anh ấy bị tung lên bắn ra bờ sông. Sau trận đánh đơn vị cho người quay lại tìm thi hài đồng đội nhưng không thấy cậu ấy.
Nghe đến đó Liên không thể chịu đựng nổi. Chị bàng hoàng, thảng thốt, buông rơi cái lược trong tay. Lòng chị bỗng nhiên thấy trống vắng tới không cùng. Chị thẫn thờ hàng giờ,  sau đó  mới bật lên tiếng khóc đau thương nghẹn ngào. Có thể nào tin được anh đã hy sinh! Anh  không  thể trở về với chị và con. Chị lao vào buồng, ôm chặt con vào lòng. Thằng bé vẫn đang thiêm thiếp ngủ.
Có buổi, khi chiều  về, Liên bế con đứng bên ghềnh. Bên kia sông hoàng hôn màu tím loang khắp chân trời.  Liên dõi theo bóng dáng những con thuyền xuôi ngược. Dòng nước vật mình gầm gào chảy. Những kỷ niệm của tình yêu bỗng chốc sống lại trong lòng chị. Tất cả như vừa mới qua đây thôi. Chị tự nhủ: anh ấy còn sống. Niềm tin vào tình yêu mách bảo chị : anh Tập còn sống. Dòng sông sẽ chở che,  như lòng mẹ cưu mang những đứa con. Nhất định anh ấy còn sống! Chị dụi mặt vào hai má ấm nóng của đứa trẻ, cảm thấy như có mùi thịt da của anh.
Hơn năm sau  ông Tân mất. Đó là  một ngày hè, nắng dữ dội. Gần trưa, trong lúc đi cày, bỗng ông Tân  đổ vục xuống.  Hàng xóm xúm lại đưa ông Tân về nhà, đánh cảm, nhưng ông không qua khỏi.
Bà Tân buồn chán, thành thử lâm bệnh nặng, nằm liệt giường vài năm liền. Liên tự nhủ: mình không thể mềm yếu. Lúc này, con trai đang cần mình, mẹ Tân đang cần mình. Nén lại nỗi đau mất mát, Liên gồng mình làm lụng nuôi con, chăm sóc bà Tân nhiều  năm trời , tới khi bà theo ông về nơi đất phật.

*

Bố tôi kể:  Khi kết thúc trận đánh tối hôm đó, đơn vị chuyển quân, qua bìa rừng tới gần bờ sông thì pháo của địch bắn tới. Có quả nổ trúng đội hình. Bố bị sức ép của đạn pháo  văng ra sông. Bố không biết gì hết, chẳng  suy nghĩ được điều gì lúc đó. Cho đến khi tỉnh dậy, bố thấy mình nằm trong căn hầm. Ngồi cạnh bố là một cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi, quàng khăn rằn, khuôn mặt trái xoan, trắng. Cô gái đặt tay lên trán bố, dịu dàng nhìn bố, nhoẻn cười mừng rỡ nói: anh tỉnh rồi. Sau đó bố lại chìm vào cơn hôn mê.
Bố tôi kể tiếp: Ngày sau bố mới tỉnh lại. Trong người cảm thấy ngẹn thở và vô cùng mệt mỏi. Cô gái nói bằng chất giọng êm dịu trìu mến:  em và mẹ thấy anh nằm ria mép nước, vẫn còn thoi thóp thở. Mẹ bảo em: người đằng mình  đó. Hai mẹ con em đưa anh về, giấu dưới hầm. Anh cứ ở đây. Mẹ con em chăm sóc vết thương. Khi nào khỏe anh hay trở về đơn vị.
Bố đã ở đấy gần sáu tháng, sau mới tìm về được đơn vị.
Sau năm 73,  bố tôi ra bắc. Ở  trại an dưỡng chưa đầy ngày, ông háo hức khoác ba lô về làng, lòng chộn rộn với bao suy nghĩ về những đổi thay của quê hương, của gia đình. Những khát khao đoàn tụ, hạnh phúc bấy lâu dồn nén, nay có cơ hội giải tỏa làm ông phấn chấn và kỳ vọng.
Vừa nhìn thấy bố tôi, mừng  rỡ và xúc động, mẹ tôi lặng người. Mẹ lảo đảo, vịn vào thành ghế, ngồi xuống, đôi mắt không rời bố tôi. Lát sau mẹ nói: Em đã tưởng không bao giờ còn gặp được anh! Mẹ khóc vì mừng vui, nước mắt chảy dàn dụa trên khuôn mặt hóp gày, nâu rám.
Bố tôi nói: không lúc nào, anh thôi nghĩ về em, về con, về cha mẹ. Chiến tranh vô cùng ác liệt. Trong một trận đánh, anh bị sức ép của pháo, văng ra sông. Một mảnh pháo găm vào ngực anh. khiến anh mê man bất tỉnh nhiều ngày. Những tưởng không bao giờ còn được gặp em và con…Anh thất lạc đơn vị, mất hoàn toàn liên lạc với em. Em, con, cha mẹ và quê hương thân thương đã cho anh khát khao cuộc sống , sống để trở về.
Mẹ tôi thôi khóc, khuôn mặt trở lên vui vẻ, tươi tình.
Buổi chiều đó, bố tôi đưa mẹ ra ngồi bên ghềnh đá. Bên bên sông, bố mẹ hồi tưởng lại những kỷ niệm về tình yêu. Vào mùa thu, dòng nước xanh trong êm đềm chảy. Nước réo rắt như điệu nhạc qua ghềnh.
Sau thời gian ở trại an dưỡng, bố tôi được phân công về làm việc ở khu gang thép Thái Nguyên.
Tôi và mẹ theo bố lên Thái Nguyên sinh sống. Mẹ tôi được nhà máy gang thép bố trí cho làm việc hành chính ở cơ quan. Mấy năm sau, mẹ Liên mất.  Bố tôi không đi bước nữa. Ông không thể yêu ai ngoài mẹ tôi. Gần hai chục năm sau, gia đình tôi chuyển về Hà Nội.
Hàng năm vào mùa xuân, khi làng tổ chức lễ hội, tôi đều về quê để được đắm chìm trong làn điệu chèo, ngắm những con thuyền thư thả  theo từng nhịp, từng nhịp mái chèo  ra giữa dòng lấy nước tế. Văng vẳng đâu đây giai  điệu chèo mẹ tôi từng hát, khiến lòng tôi xốn xang bao ý nghĩ. Tôi như nhìn thấy mẹ tôi thon thả trong trang phục áo mớ ba. Mẹ tôi như bay, thân hình uyển chuyển trong tiếng trống chèo.
Mặt  sông mờ tỏ hơi sương.
Hoa gạo đã đơm những cánh hoa  đỏ đắn.
Lời nguyền tình yêu giờ chỉ còn là câu chuyện truyền thuyết. Theo giấc mơ của một trưởng lão “ Một ông lão người làng Thượng Cát, vốn đuổi vịt đồng. Để đánh giấu mốc giới ruộng đất giữa hai làng, ông đào ruộng, bỏ vỏ trứng vịt xuống ranh giới rồi lấp đất”, dân hai làng đào ruộng , lần theo dấu vết của vỏ trứng  xác định ranh giới. Từ đó mâu thuẫn giữa hai làng chấm dứt. Trai gái hai làng nhiều cặp nên vợ nên chồng.
Chẳng biết có phải cơ duyên xui khiến. Tôi cũng là rể của làng Hạ.
                                                                  

Hưng Yên năm 2015

0 nhận xét:

Đăng nhận xét