ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH NHÀ TRƯỜNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
ThS. Đỗ Thế Hưng, ThS. Nguyễn Thế Dân
Trường Đại học SPKT Hưng Yên
Bài đăng Tạp chí Dạy và học ngày nay
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) có vai trò đặc biệt quan trọng trong
phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất
nước. Phần lớn lao động qua đào tạo được trưởng thành từ các nhà trường GDNN.
Chưa khi nào hệ thống GDNN ở nước ta lại có quy mô lớn như hiện nay. Tuy
nhiên, chất lượng đào tạo, sự đa dạng của các loại hình trường và đặc biệt là việc
đáp ứng nhu cầu của xã hội trong các nhà trường GDNN còn bộc lộ nhiều bất cập.
Mô hình nào cho các nhà trường GDNN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế? Đó là vấn đề cần được quan tâm giải quyết trong xu thế đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục nước ta.
1. Những bất cập trong mô hình nhà trường GDNN ở Việt Nam hiện nay
Với tiếp cận mô hình nhà trường GDNN theo chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức, từ đó làm rõ về mô hình tổ chức, mô hình đào tạo, mô hình đầu tư tài chính,
mô hình liên kết doanh nghiệp, mô hình liên kết thị trường lao động, mô hình liên
thông trong khu vực giáo dục nghề nghiệp với khu vực giáo dục hàn lâm, mô hình
quản lí chất lượng nhà trường v.v…, chúng tôi nhận thấy:
1.1. Các trường Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN), Trung cấp nghề (TCN),
cao đẳng nghề (CĐN) đều có mô hình tổ chức, mô hình đầu tư tài chính, mô hình
liên kết thị trường lao động tương đương nhau, hoạt động theo những quy định
trong điều lệ nhà trường và các quy định khác của nhà nước nhưng tồn tại những
yếu tố không hiệu quả hoặc chưa chú trọng đến việc đáp ứng nhu cầu xã hội
- Cơ cấu tổ chức của các nhà trường GDNN gồm có: [3], [4], [5], [6]
a) Hội đồng trường (đối với trường công lập), Hội đồng quản trị (đối với
trường tư thục);
b) Hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng;
c) Các hội đồng tư vấn do hiệu trưởng thành lập;
d) Các phòng chức năng;
đ) Các khoa, tổ bộ môn;
e) Các lớp học;
f) Các cơ sở phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học;
g) Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam;
h) Các đoàn thể và tổ chức xã hội;
Đối với các trường TCN, CĐN có quy định thêm một thành tố nữa là các đơn
vị sản xuất, doanh nghiệp (nếu có).
Trên cơ sở mô hình cơ cấu tổ chức chung như vậy, tùy vào điều kiện thực
tiễn mà quy mô của mô hình có thể chia nhỏ hoặc gộp lại theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể được các nhà trường áp dụng cho phù hợp. Điều đó tạo được sự phát triển
bền vững trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong đa số
các trường GDNN, Hội đồng trường hoạt động không hiệu quả, chỉ mang tính hình
thức và chưa phát huy được vai trò tự chủ của một cơ sở giáo dục.
- Mô hình đầu tư tài chính được thực hiện theo quy định tại Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập và các quy định hiện hành của nhà nước. Trường
tư thục thực hiện việc quản lí tài chính theo quy định tại Nghị định số 53/2006/NĐ-
CP ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển
các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập.
Các nhà trường đều xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, nhưng chính sách thu
hút đầu tư và trả công cho đội ngũ cán bộ, viên chức vẫn chưa thực sự thúc đẩy chất
lượng đào tạo thực hành và khích lệ sự sáng tạo, nhiệt huyết của đội ngũ; chủ yếu
vẫn mang tính chất khuyến khích giảng dạy truyền thống hoặc thúc đẩy việc có
bằng cấp cao để được chi trả lương cao hơn.
Mặt khác, việc đầu tư chưa trọng điểm, mang tính dàn trải và thiếu chiến
lược đã dẫn tới khó có một mô hình chất lượng cao trong đào tạo nghề ở Việt Nam.
- Việc liên kết thị trường lao động và liên kết doanh nghiệp trong những năm
gần đây được các nhà trường thúc đẩy mạnh mẽ hơn thông qua các hoạt động tổ
chức hội chợ việc làm, thực tập doanh nghiệp, hợp tác đào tạo… Qua khảo sát và
làm việc trực tiếp với 10 trường TCN, CĐN, TCCN cho thấy, không có sự khác biệt
đặc trưng của các loại hình trường đó về mô hình liên kết thị trường lao động và
doanh nghiệp. Sự thúc đẩy mạnh mẽ các liên kết đó là tùy thuộc vào chính sách ưu
tiên trong quản lí và sự năng động của các trường, cùng lợi thế về truyền thống, chất
lượng, đặc thù về ngành nghề, vị trí địa lí…
Ở một số trường đã hình thành các bộ phận quan hệ với doanh nghiệp, thị
trường lao động, những trường khác lại thực hiện chức năng đó thông qua các đơn
vị đào tạo và lồng ghép trong các hoạt động đào tạo. Tuy nhiên, sự liên kết hiện nay
chưa có hiệu quả cao, việc đóng góp ý kiến phản hồi về xây dựng chương trình đào
tạo để nhà trường có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thực tế của doanh
nghiệp vẫn chưa được sự chú trọng, quan tâm của doanh nghiệp; việc khảo sát nhu
cầu nhân lực của doanh nghiệp chưa thực sự chính xác; việc cung cấp những thông
tin đào tạo và nhu cầu sử dụng lao động phối hợp chưa thực sự tốt ... dẫn đến tình
trạng việc đào tạo vẫn chưa thật sự bám sát vào nhu cầu thực tế của doanh nghiệp
[7]. Mặt khác, chưa có cơ chế, chính sách cũng như ràng buộc đối với dạy nghề
trong việc đầu tư, liên kết đào tạo nghề. Điều này cho thấy chưa có một mô hình
liên kết doanh nghiệp và thị trường lao động cũng như tư vấn, hỗ trợ người học một
cách chính thức và thực sự hiệu quả ở cấp trường và trong toàn hệ thống GDNN.
1.2. Mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề
là khác biệt nhưng nhà trường và xã hội chưa xác định được chuẩn đào tạo và
việc làm phù hợp với những mục tiêu đó, gây ra sự chồng chéo, rườm rà, phức
tạp, lãng phí trong quản lí, đào tạo và sử dụng nhân lực. Cụ thể là:
- Mục tiêu giáo dục TCCN “nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kĩ
năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc”, còn “dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kĩ
thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với
trình độ đào tạo” [2]. Nhưng thực tế, những trường đào tạo các trình độ TCCN, TCN,
CĐN thì rất khó tách bạch các mục tiêu đó trong quá trình đào tạo của mình, đặc biệt
là giữa cao đẳng (CĐ) với CĐN hoặc TCCN với TCN, dẫn đến khó đánh giá được sự
khác biệt về năng lực đầu ra của người học ở các loại hình đào tạo đó. Mặt khác, thị
trường lao động và doanh nghiệp cũng không có sự phân biệt đãi ngộ cũng như vị trí
làm việc theo loại hình đào tạo TCCN hay dạy nghề (không phân biệt đó là TCCN
hay TCN; CĐ hay CĐN), mà nhà tuyển dụng sẽ xuất phát từ yêu cầu của vị trí công
việc để tuyển người có trình độ đào tạo và kĩ năng tay nghề phù hợp.
- Trong thực tế, xã hội rất cần nhân lực qua đào tạo nghề ở mức thành thạo kĩ
năng nghề chuyên môn nhất định. Vì vậy đào tạo TCCN hiện nay cũng theo xu
hướng tăng cường kĩ năng thực hành cho người học. Tỉ lệ thời lượng dành cho thực
hành, thực tập trong khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp của chương trình đào
tạo TCCN ở các trường là từ 50% - 75%. Tỉ lệ này ở các chương trình đào tạo đối
với hệ TCN chiếm 65% - 85% và 65% - 80% đối với hệ CĐN. Vậy thì tại sao lại
phải đặt ra các hệ TCCN, TCN khi mà mục tiêu của chương trình đào tạo hướng tới
đều là đào tạo người học thành thạo kĩ năng nghề nghiệp chuyên môn phục vụ nhu
cầu nhân lực của xã hội. Mặt khác, các doanh nghiệp thường tuyển những người có
trình độ đại học vào các vị trí lao động gián tiếp (vì số người tốt nghiệp đại học bây
giờ không còn hiếm), còn lại sẽ tuyển nhiều vào vị trí lao động trực tiếp, nên người
học ở trình độ TCCN, thậm chí CĐ cũng sẽ được tuyển dụng vào lao động trực tiếp
như những người tốt nghiệp TCN, CĐN quen thuộc.
- Mặc dù các trường TCCN, TCN, CĐN thuộc 2 hệ đào tạo khác nhau
(chuyên nghiệp và dạy nghề) với điều lệ hoạt động có phần khác nhau: TCCN đào
tạo nhân lực có trình độ kiến thức, kĩ năng cơ bản của một nghề; TCN đào tạo nhân
lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ ở trình độ trung cấp nghề, sơ cấp nghề;
CĐN đào tạo nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ ở các trình độ CĐ
nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề. Nhưng trong thực tế, các trường TCCN vẫn
tuyển sinh đào tạo các trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề; các trường CĐ (thuộc
giáo dục đại học) vẫn tuyển sinh đào tạo CĐN, TCN, sơ cấp nghề. Điều đó cho thấy
sự tồn tại biệt lập giữa các loại hình trường TCCN và TCN; CĐ và CĐN là rườm rà,
phức tạp, thiếu tính thống nhất, lãng phí đầu tư và kéo theo một loạt hệ lụy trong
tìm kiếm những khác biệt không cần thiết về chương trình, chuẩn đào tạo, chuẩn
nghề nghiệp, chuẩn chất lượng, hệ thống quản lí…
- Thiếu các chuẩn đào tạo được xây dựng một cách hệ thống, đặc biệt các
chuẩn trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra, chuẩn chương trình đào tạo.
1.3. Mô hình liên thông giữa các trình độ đào tạo trong hệ thống GDNN
và liên thông giữa hệ thống GDNN với hệ thống giáo dục hàn lâm chưa đảm bảo
chất lượng và thiếu tính hệ thống
- Học sinh tốt nghiệp TCCN, TCN có thể liên thông lên trình độ CĐ, đại học
trong cùng hệ thống. Về mặt logic thì điều đó rất hợp lí và có lợi cho người học để
không ngừng nâng cao trình độ đào tạo. Nhiều trường TCCN và dạy nghề cũng dựa
vào tính liên thông trong đào tạo để thu hút người học tham gia. Tuy nhiên, cũng
chính vì cái logic hình thức ấy cùng với việc quản lí thiếu chặt chẽ và tâm lí sính
bằng cấp của xã hội đã tạo ra lỗ hổng về chất lượng và hiện tượng dồn toa trong đào tạo bậc cao. Học sinh có trình độ đầu vào thấp (không thi đỗ đại học, CĐ) được xét
tuyển gần như không hạn chế vào các trường TCCN, TCN, CĐN, rồi cứ học liên
thông dần sẽ có thể đỗ đạt tiến sĩ như những người có trình độ đầu vào cao (đỗ đạt
cao trong kì thi đại học). Trong xu thế hiện nay, khi người học chưa thực sự yên tâm
với cái bằng TCCN, TCN, CĐN vì khó tìm việc làm cùng với việc mở cửa liên
thông trong giáo dục đại học thì hiện tượng dồn toa ở các trường đại học (đào tạo
liên thông là chủ yếu) sẽ khó tránh khỏi.
- Một vấn đề nữa đặt ra là chưa hề có sự liên thông giữa dạy nghề (TCN,
CĐN) với giáo dục chuyên nghiệp (TCCN, CĐ) mà lại có liên thông giữa dạy nghề
với giáo dục hàn lâm (Đại học trở lên). Đó lại là điều rất thiếu logic.
1.4. Mô hình quản lí nhà nước và quản lí chất lượng nhà trường trong hệ
thống GDNN cũng bị chồng chéo
- Quản lí nhà nước chồng chéo, cơ cấu hệ thống giáo dục phức tạp, thiếu tính
hội nhập. Phân luồng, liên thông còn chưa triệt để: Số học sinh tốt nghiệp THCS
vào học TCCN có chiều hướng giảm trong 3 năm học qua (năm 2011 giảm trên
4.000 em so với năm 2009) [8].
- Có hai bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nhà trường GDNN, một bộ dùng
cho trường TCCN do Bộ GD&ĐT ban hành, một bộ dùng cho các trường TCN,
CĐN do Bộ LĐTB&XH ban hành, trong khi đó, mô hình tổ chức, mô hình đầu tư
tài chính, mô hình đào tạo, mô hình quản lí nhà trường không có gì khác biệt đáng
kể. Các bộ tiêu chuẩn đó đều thuộc mô hình đảm bảo chất lượng. Vậy có cần thiết
phải sử dụng nhiều công cụ đo khác nhau hay không để dẫn đến tình trạng khó phân
biệt được trường TCCN chất lượng hơn trường TCN, CĐN hoặc ngược lại.
1.5. Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp và xã hội
- Chất lượng và hiệu quả đào tạo thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu doanh
nghiệp, lãng phí trong đầu tư, không tính đến hiệu quả và tác động; quan hệ với các
doanh nghiệp khá hạn chế. Năm 2011 chỉ có 34% doanh nghiệp hài lòng với chất
lượng đào tạo nghề [1].
- Mặt khác, khảo sát của Bộ GD-ĐT đã cho thấy, hầu hết các trường không
dành 70% thời gian cho thực hành nên sản phẩm ĐT không đáp ứng được yêu cầu
thị trường. Cũng bởi thế mà có tới 50% số HS ra trường đang làm việc tại các doanh
nghiệp cần phải ĐT lại, cần phải được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là
về kĩ năng thực hành trong khoảng 1- 6 tháng tuỳ theo lĩnh vực ngành nghề và yêu
cầu của cơ sở sử dụng lao động.
- Động cơ người học thấp, nhìn chung xuất thân từ gia đình khó khăn về kinh tế
và năng lực học vấn thấp, người học cần mảnh bằng hơn là tri thức, kĩ năng làm việc.
Nguyên nhân chủ yếu khiến học sinh theo học tại các nhà trường GDNN là
do trường ở gần nhà chứ không phải xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về
nghề nghiệp và xu hướng nghề của bản thân. 51.3
23
9.6
7.5
4.8 0.9 1.8 0.9 Trường ở gần nhà bố mẹ/ họ hàng
Sở thích của anh/chị về ngành nghề
Ngành nghề đó có cơ hội việc làm ổn định
Dễ xin việc khi ra trường
Không phải đóng học phí
Không đỗ vào trường đại học
Không đủ điều kiện kinh tế để học nơi khác
Do bố/mẹ người thân ép buộc
Trường có danh tiếng trong xã hội
Hình 1: Nguyên nhân ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của học sinh
2. Đề xuất cấu trúc hệ thống giáo dục nghề nghiệp mới (Hệ thống giáo
dục KT&NN) và mô hình nhà trường GDNN trong quá trình hội nhập quốc tế
- Để khắc phục những bất cập nêu trên và có thể hội nhập quốc tế thì hệ
thống GDNN nước ta nói chung và nhà trường GDNN nói riêng cần phải đổi mới
dựa trên các định hướng cơ bản sau:
1) Đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội (nhà nước, doanh nghiệp, cộng
đồng...) theo cơ cấu ngành nghề và các chuẩn mực trong tiêu chuẩn nghề nghiệp
quốc gia (loại ngành nghề và bậc trình độ). Gắn đào tạo với sử dụng nhân lực ở các
cấp trình độ.
2) Mở rộng khung trình độ đào tạo nhân lực từ trình độ sơ cấp, trung
cấp đến trình độ CĐ và đại học theo định hướng thực hành-nghề nghiệp (bao gồm
cả các loại hình trường CĐ, đại học địa phương, đại học chuyên ngành không có
chức năng và định hướng đào tạo sau đại học)
3) Thống nhất các loại hình trường trung cấp (trung cấp nghề và trung
cấp chuyên nghiệp) thành loại hình trường trung học KT&NN và thống nhất loại
hình trường CĐ KT&NN (cộng đồng, nghề, kĩ thuật ...) với nhiều loại chương trình
đào tạo theo các cấp trình độ nhân lực (sơ cấp, trung cấp, CĐ)
4) Thống nhất đầu mối quản lí hệ thống giáo dục KT&NN mới trực
thuộc Chính phủ hoặc Bộ GD&ĐT/ Bộ LĐ-TB&XH. Thành lập Tổng cục Giáo dục
KT&NN trên cơ sở hợp nhất Tổng Cục Dạy nghề và Vụ Trung cấp chuyên nghiệp
(Bộ GD&ĐT)
5) Phù hợp với phân loại giáo dục quốc tế (ICED -UNESCO 1997 và
2011) và mô hình hệ thống giáo dục KT&NN (VTE - Vocational and Technical
Education) ở các nước trên thế giới (Australia, Hà lan, Malasia, Hàn quốc, Đài loan..)
- Mô hình hệ thống GDNN mới:
Giáo dục đại học
- Đại học QG/Vùng
- Các trường đại học theo hướng nghiên
cứu/đào tạo đại học và sau ĐH
- Trường đại học nghề nghiệp
Giáo dục Kĩ thuật- Nghề nghiệp (VTE)
- Trường Cao đẳng KT&NN (CĐ nghề/CĐ KT-
KT);
- Trường TH KT&NN;
- Trung tâm dạy nghề;
- TTGD KTTH&HN
Giáo dục phổ thông
- THPT
- THCS
- Tiểu học
Thị trường lao động và bậc
phân loại trình độ nghề nghiệp
quốc gia
(1) LĐ cao cấp (chất xám). Bậc 5
(2) LĐ kĩ thuật- nghề nghiệp
(Bậc 4, 3, 2)
(3) Lao động thủ công, giản đơn,
hẹp. (Bậc 1)
Hình 2: Sơ đồ cấu trúc hệ thống giáo dục kĩ thuật - nghề nghiệp mới
- Mô hình các trường GDNN mới: Trung cấp Kĩ thuật và nghề nghiệp; CĐ
Kĩ thuật và nghề nghiệp
Trường THPT
(50-60 % học sinh tốt
nghiệp THCS)
Trường THCS (Thu hút 80-
90% HS tốt nghiệp Tiểu học)
Trường Cao đẳngKT&NN
Thời gian đào tạo 2-3 năm tùy theo từng loại chương trình . (Thu hút
khoảng 50% học sinh tốt nghiệp THPT). Bằng Cao đẳng
Trường Trung học KT&NN
Thời gian đào tạo 2-3 năm. Kết hợp đào tạo nghề và văn hóa tương đương
THPT ( Bổ túc văn hóa ) ( Thu hút khoảng 50-40% học sinh tốt nghiệp
THCS. Bằng TH KT&NN
Đại học/Trường Đại học
Trường Tiểu học
Các TT:
GDTX;
Dạy nghề;
GDKTTH
vàHN
HỆ THỐNG GD KĨ THUẬT NGHỀ NGHIỆP GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Hình 1: Mô hình hệ thống nhà trường và các loại hình trường giáo dục KT&NN
Đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống GDNN là nhiệm vụ trọng tâm trong sự
nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, trước hết
cần xây dựng được mô hình cơ cấu hệ thống GDNN và mô hình nhà trường GDNN
có thể khắc phục được những bất cập hiện nay và đáp ứng với nhu cầu của xã hội về
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đảm bảo duy trì một tốc độ phát triển công
nghiệp cao theo hướng hiện đại trong quá trình hội nhập quốc tế. Hai mô hình nhà
trường GDNN mà chúng tôi đề xuất có sự thống nhất về trình độ đào tạo và chuẩn
nghề nghiệp, đảm bảo được tính liên thông ở trong và ngoài hệ thống. Từ đó có thể
xây dựng được cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và các mô hình quản lí phù
hợp, thống nhất trong toàn hệ thống GDNN ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của VCCI về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam
năm 2011
2. Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm của Quốc Hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quyết định Số: 51/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 05/5/2008 của Bộ trưởng
Bộ LĐ-TB&XH ban hành Điều lệ mẫu trường CĐ nghề
Quyết định Số: 52/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 05/5/2008 của Bộ trưởng
Bộ LĐ-TB&XH ban hành Điều lệ mẫu trường trung cấp nghề
Thông tư Số: 14/2009/TT-BGDĐT ngày 28/5/2009 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành Điều lệ trường CĐ
Thông tư Số: 54/2011/TT-BGDĐT ngày 15/11/2011 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành Điều lệ trường TCCN
Võ Văn Thiện, một số ý kiến về đào tạo gắn kết nhu cầu doanh nghiệp,
http://www.dubaonhanluchcmc.gov.vn, 19/11/2012
http://gdtd.vn/channel/3005/201208/GDCN-chuyen-manh-tu-phat-trien-
so-luong-sang-nang-cao-chat-luong-1962739/TÓM TẮT
Trên cơ sở tiếp cận thực tiễn và qua tìm hiểu về hệ thống giáo dục nghề
nghiệp của một số quốc gia (Australia, Hà lan, Malasia, Hàn quốc, Đài loan...) trên thế
giới, nhóm nghiên cứu đã làm rõ những bất cập tiêu biểu trong mô hình nhà trường
GDNN ở Việt Nam, đó là: 1- Tồn tại những yếu tố không hiệu quả hoặc chưa chú
trọng đến việc đáp ứng nhu cầu xã hội trong mô hình tổ chức, mô hình đầu tư tài chính
và liên kết thị trường lao động; 2- Nhà trường và xã hội chưa xác định được chuẩn
đào tạo và việc làm phù hợp với từng trình độ đào tạo, gây ra sự chồng chéo, rườm
rà, phức tạp, lãng phí trong quản lí, đào tạo và sử dụng nhân lực; 3- Liên thông
trong và ngoài hệ thống GDNN chưa đảm bảo chất lượng và thiếu tính hệ thống; 4-
Quản lí nhà nước và quản lí chất lượng nhà trường trong hệ thống GDNN cũng bị
chồng chéo; 5- Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp và xã hội.
Trên sở đó chỉ ra những định hướng cơ bản trong đổi mới cơ cấu hệ thống GDNN
và đề xuất 2 mô hình nhà trường GDNN mới (1 – Trường Trung học KT&NN và 2-
Trường Cao đẳng KT&NN) đảm bảo có sự thống nhất về trình độ đào tạo và chuẩn
nghề nghiệp, có tính liên thông ở trong và ngoài hệ thống. Từ đó có thể xây dựng
được cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và các mô hình quản lí phù hợp, thống
nhất trong toàn hệ thống GDNN ở Việt Nam.