Truyện ngắn của Hồ Ngọc Vinh
Bắt đầu có mưa rào, có
buổi mây đen kịt, từ xa vọng lại tiếng sấm ì…uu…ùng và thoảng thấy có những vòi
rồng cuốn, xoáy phía chân trời. Lát sau mây đen kéo đến, vần vũ che kín khoảng
trời, gió bắt đầu mạnh dần mang hơi nước xua
đi cái ngột ngạt oi bức tích tụ từ bao ngày nay. Mưa lác đác rơi, những hạt
mưa to xiên xiên xối ào ạt trên mái nhà, đất trời mù trắng nước mưa. Thoảng lại
có tiếng sấm, tiếng sét nổ đanh dội lên…ùng…soẹn…soẹt…. Ùng ..Đùng…Đ…oàng, những
tia chớp lóe sáng vạch vào khoảng không những vệt lửa đỏ lằn sắc.
Ông Chính ngồi trên chiếc
tràng kỷ ngó ra khoảng trời mưa, tuổi đã gần bảy mươi, tóc bạc trắng song vẫn
giữ được thói quen ham công việc và nếp sống nhanh nhẹn. Công việc với ông là
niềm vui. Ông bận cái quần ka ki màu rêu, cái áo bằng vải phin màu ghi, nước da
nâu đỏ, bắp ngực, bắp tay và bắp chân vẫn săn rắn dấu tích lưu lại của một thời
thanh xuân khỏe mạnh và tự cường.
Ông Chính nói bằng giọng
chậm rãi: Ngày trước vào những cơn mưa rào đầu mùa, cá rô từ ao đầm rạch lên
theo những dòng nước tìm chỗ đẻ trứng. Những con rô xòe to bằng nửa bàn tay, mập
ú, béo vàng, khi bị chộp, chúng giương vây lưng, giương hai cái mang cứng và sắc
vùng vẫy nếu không khéo nắm chặt rất dễ bị xây sát bởi vây cá.
Tôi nói: Giờ cá rô đã
trở thành món ăn đặc sản. Hiếm gặp những con cá rô xòe to và béo như cá rô đầm
Kênh ngày xưa. Đi chợ không khéo mua phải cá rô nuôi, loại cá rô này thịt không
thơm, ròn béo và ngọt nước như cá rô sống trong điều kiện tự nhiên.
Ông Chính nói: chẳng
riêng gì cá rô, một số loài khác như cá lăng, cá chày, ốc nhồi, ếch và cua dần
cũng hiếm trong tự nhiên.
Tôi nói: có thể là do ô
nhiễm môi trường đấy.!
Nghe tôi nói bỗng nhiên
ông Chính trở lên trầm ngâm, khuôn mặt và đặc biệt là đôi mắt ông như đắm chìm
vào không gian của những ký ức xa xôi. Lát sau ông thủng thẳng nói: Nay người
ta vơ lên bờ cả những con ốc, con cá vụn. Lúc nào cậu ra bờ đê xem người ta
dùng lưới để bắt sẻ, giả là tiếng chim mồi để bắt chim cuốc, chim sáo.
Tôi nói như thể đồng
tình: thời buổi làm ăn kinh tế, bất cứ cái gì có thể khai thác để sinh lời con
người đều tận dụng, khiến môi trường bị hủy hoại.
Tôi nhìn quanh nhà vẫn
thấy những dóng tre dài, những bó lạt bằng sợi mây săn chắc, con dao dựa, con
dao bài màu thép sáng, lưỡi sắc trên nếp nong rộng. Tôi hỏi: giờ ông vẫn đan rổ
rá? Ông Chính nói: Phải! Tuy giờ đây có các loại rổ rá, chậu, thùng bằng nhựa,
nhu cầu với các loại sản phẩm bằng tre nứa ít đi, nhưng vẫn còn bán được. Rổ rá
của tôi được làm thuần bằng cật tre hun khói, cái nào cái ấy nan tre vàng óng dùng được
lâu nên mọi người chuộng. Vả lại tuổi
già lấy công việc làm vui, khỏe, tĩnh tại. Cậu thấy vậy có được không?
Nhìn ông Chính khỏe mạnh
minh mẫn bên cạnh cái nong đầy những lạt, cật tre, ký ức bỗng kéo tôi trở về với
những ngày tháng tuổi thơ.
*
Phải! Lúc ấy tôi con bé
tí mải chơi trò ô ăn quan thì người đàn ông này- anh ấy đã nổi tiếng trong và
ngoài xã. Đó là một thanh niên vạm vỡ và cường tráng với vóc người cân đối,
phong thái nhanh nhẹn. Anh có khuôn mặt vuông vức, hai quai hàm rộng, cằm vuông
và đôi mắt sâu hút với hàng ngài rậm . Nhìn khuôn mặt anh có thể cảm nhận ngay
được sự tự tin, cởi mở và chân thành trong ánh mắt và vẻ mặt. Ngày ấy tầm tuổi
anh Chính, mọi người truyền tay nhau đọc không biết chán những tiểu thuyết:
Sông Đông Êm Đềm; Thép Đã Tôi Thế Đấy; Trước
Giờ Nổ Súng…..vv.. và họ say sưa với những hoạt động phong trào thanh niên ở
xã.
Dạo ấy, làng trồng đay,
đay được trồng bạt ngàn trên cánh bãi ven sông, trong đồng chủ yếu là loại đay
gai thân óng đầy gai sắc, nhưng loại đay này ít trà chạnh, bẹ dày, tuốt không bị
sát nên có thể tận thu. Mùa thu hoạch đay kéo dài hàng tháng. Nhìn anh Chính tuốt
đay ai cũng phải trầm trồ. Anh Chính đứng bên cọc đà, chân trái dịch về phía
khoảng nửa bước, người hơi xoay ngiêng, thân hơi đổ về phía trước. Cạnh anh bên
trái là bó đay đã được dóc ngọn và đập gốc. Anh dùng tay phải túm bẹ ở đầu mỗi
gốc đay giật mạnh, sau đó tay trái tiếp tục nắm lớp bẹ vừa được tước khỏi thân
đay kéo mạnh, một tầm. Từng cây đay trắng muốt từ cọc đà lao ra nằm trồng tấp
lên nhau tạo thành đống đay trắng nằm phơi dưới nắng. Tiếng bẹ đay xiết vào vào
cọc đà xoèn xoẹt, xoèn xoẹt nghe vui tai. Kéo đay cần khỏe và dẻo dai. Người khỏe
mỗi ngày kéo được chục gánh bẹ. Anh Chính có thể kéo được mười bốn mười năm
gánh bẹ ngày.
Mùa hè là mùa nước lên.
Vào mỗi chiều mây trắng dựng thành núi ở chân trời phía tây bắc. Trên đỉnh của
những ngọn núi đủ loại hình thù đó là những
dải mây trắng nằm vắt ngang, trông như lưỡi của con trai thò ra khỏi vỏ dân
làng gọi đó là lưỡi trai. Kinh nghiệm dân gian, năm nào lưỡi trai thò ra rộng
dài là năm ấy mưa nhiều, lũ lớn.
Anh Chính có tài săn bắt
cá, vào độ nước lên, thường đi đánh cụp.
Vốn khéo tay, anh tự làm cụp bằng cật
tre cứng đã được hun khói. Thân cụp gồm hai phần đế và lồng được ghép với nhau
bằng dây thép hoặc lạt mây dẻo và dai. Lồng cụp trông như cái sảo thưa. Anh Chính
thường lấy ốc vặn đập nhỏ trộn với thính
thơm làm từ cám nếp, thêm vài gia vị khác tạo nên mùi thơm để dụ cá, đặt mồi
vào trong lòng cụp. Cá ngửi mùi thơm tìm mồi đụng vào nẫy, lồng cụp sẽ sập xuống.
Cụp còn được đeo đá hoặc gạch giữ cho neo tại một vị trí, không bị nước cuốn đi.
Sông Hồng vào hè dòng đỏ
ngàu phù sa. Nước chảy xiết cuồn cuộn trôi xuôi cuốn theo bèo tây và củi dều.
Nước ngập bờ đá, tràn lên bãi. Vào mỗi chiều anh Chính thường mặc quần đùi, phô
phang tấm ngực trần vồng lên từng bắp thịt, cặp đùi to thon, chắc khỏe và bắp
tay rắn chắc, màu nước da nâu đỏ như đồng hun đi dọc theo bờ sông tìm chỗ để đặt
cụp. Chỗ đặt cụp phải là chỗ nước sâu, đó thường là chỗ bãi lở hoặc sau ghềnh. Anh lội nước, cẩn
trọng đặt cụp, làm dấu, mỗi lần đặt khoảng chục chiếc cụp rồi về nhà.
Cá bị sập trong cụp thường
là cá chép, cá lăng, cá ngạnh. Có sáng anh xách dăm con chép, con lăng về làng.
Cá lăng thân tròn, sống lưng màu xám, bụng trắng, cá chép có con đến dăm cân, vảy
vàng, bụng trắng, miệng đầy râu. Chúng ngoe ngoe những cái râu khi anh dùng bẹ đay
tươi móc xâu mang.
Nhưng đình đám vẫn là
chuyện anh Chính lấy vợ. Phụ nữ ai chẳng muốn cho mình một người đàn ông khỏe mạnh
xốc vác, có tài làm ăn. Một người chồng như thế với họ ví như một con đực tốt,
cái cột to khỏe trong nhà . Gái tham tài, giai tham sắc chuyện ấy các cụ đã
nói, có sai đâu. Một người như anh Chính
có sức cuốn hút phụ nữ ghê lắm. Các thôn nữ nhìn anh với ánh mắt sắc lẹm, không
giấu giếm thiện cảm, khao khát được yêu, được độc chiếm. Đi làm, hay sinh hoạt
đoàn, anh ở nhóm nào là nhóm ấy rộn tiếng cười và luôn dẫn đầu vì thế mọi người
hay tranh giành anh.
Các cô ghen lẫn nhau,
người này nói xấu người kia: cái con bé ấy không biết ngượng! Con gái gì mà chẳng
ý tứ, cứ xán vào người ta thế kia. Con ấy buồn cười thật, khuôn mặt khi cười cứ như thị nở, xấu người, xấu nết mà cứ õng ẹo!
Có cô thường tỏ ra trước mọi người rằng anh ấy đã thuộc về tôi bằng những hành
vi mạnh bạo và ngăn không cho cô khác có cơ hội tiếp xúc với anh. Có cô yêu thầm
nhớ trộm vùi đầu vào viết thư, thấm hương hoa hồng xấu hổ không dám đề tên khi
gửi cho anh.
Trong đám con gái ấy có
chị Long, dáng người thon thả, chắc lẳn, khuôn mặt trái xoan, cái mũi dọc dừa
cánh mũi nhỏ thanh tú, cái miệng có bờ môi hồng tươi, đặc biệt nước da trắng hồng
mịn màng và cặp mắt mơ đằm thắm. Mọi người nói: cái Long toàn thoa phấn. Chị
Long: Mình dân quê, có bao giờ biết đến phấn sáp, thỏi son. Họ nói gì thây kệ.
Sắc mặt chị Long lúc nào cũng tươi như một đóa hoa hàm tiếu, trên môi thường trực
một nụ cười. Chị thường quấn khăn mỏ quạ. Dưới tấm khăn ấy khuôn mặt trái xoan
rạng rỡ, e ấp khiến chị thập phần xinh hơn.Mọi người mến chị ở nét tính cách
duyên dáng, dịu dàng, vị tha. Trai làng có nhiều người phải lòng chị nhưng…
Anh Chính và chị Long
Yêu nhau. Bọn trẻ con chúng tôi biết điều đó, ngày ấy tò mò lắm đôi khi còn rủ
nhau mai phục các cặp tình nhân tự tình ở ven đê hoặc ven sông.
Gia đình anh Chính
không muốn thông gia với gia đình nhà chị Long. Ông bà Thái gọi anh Chính nói:Anh
thích ai thì thích, không được thích cái Long. Anh Chính ngạc nhiên hỏi : sao ạ?
Bố anh nói: là tôi không cho phép anh tìm hiểu con Long. Nhưng sao chứ, cô ấy rất
nết na mà. Đã đành như thế, nhưng tuổi nó với tuổi anh không hợp. Nó sinh năm Dần,
anh sinh năm Hợi. Con Hổ nó vồ con Lợn chết. Bố mẹ lại mê tín rồi- Anh Chính
nói. Không phải là mê tín đâu! Kinh nghiệm
các cụ để lại đấy. Anh không nghe, sau này có việc gì chẳng lành xảy ra đừng
nói là bố mẹ không răn dạy- Bố anh nói. Mẹ anh nói: Làng thiếu gì con gái, sao
cứ phải là con Long cơ chứ. Bố mẹ con Long dâu gia dâu giáo với nhà Thản vốn là
con gái của bác tôi. Chúng tôi đang phận là gì là chú nay lại ngang hàng với họ,
có công việc gì trong họ ngoài làng giáp mặt nhau khó xử lắm. Anh Chính nói: bố
mẹ cổ hủ quá rồi! Lối nào đi lối ấy chứ. Cứ khe kẽ như thế, con thà thôi không
lấy vợ. Mẹ anh Chính buột miệng: anh chỉ được cái nói bậy bạ. Trai lớn lấy vợ,
gái lớn gả chồng. Ông Thái nói: con nó nói vậy thôi. Gớm! Vài bữa nữa không giục
bố mẹ cưới vợ cho vội. Ông Thái có vẻ không hài lòng vì con trai, nói với mẹ
anh Chính: Mẹ con bà liệu mà bảo nhau, nếu không hàng xóm họ cười cho đấy.
Có lần biết tụi trẻ vẫn
lén lút gặp nhau, ông Thái mặc cái quần nâu, cái áo cánh gụ phai màu không cài
cúc để lộ khuôn ngực gày, nhìn anh Chính như đổ lửa giận vào mặt, khuôn mặt gày
guộc xương xẩu của ông tái đi vì giận dữ. Ông chỉ tay nói: Mày! Mày không nghe
lời bố! Tao đã nói là không cho mày tìm
hiểu nó rồi mà. Cái đồ dại gái. Mày! Mày vào đây! Ông nói đồng thời tay giơ cái
gậy lên như chực đánh anh Chính. Chuyện ấy sở dĩ các cụ biết là vì con bé cái Hằng em anh Chính bạn tôi. Nó hay
mách lẻo lắm. Cái gì cũng kể với bố mẹ, chẳng ý
tứ giữ gìn gì cả. Đúng là phụ nữ cộng với con vịt là thành cái chợ.Tôi bảo
nó: đồ Na Mô hớt. Cậu không được kể chuyện anh Chính chị Long với bố mẹ nữa
nghe, nếu không sẽ không cho chơi với bọn
tớ! Cái Hằng mặt vênh lên, đuôi tóc ngúng ngoảy bướng bỉnh: cứ kể! Nó thách thức:
đã sao nào, đây cũng không thèm chơi với! Cạch nhé! Vào những lúc ấy, biết bố mẹ
nóng giận, anh Chính chẳng phản ứng gì cả, càng giải thích các cụ càng điên máu.
Anh biết thế nên có lần gặp chị Long trong lúc chị rối bời vì lo lắng, anh nói:
em phải vững tin! Anh lấy vợ chứ có phải các cụ lấy vợ đâu. Các cụ còn định kiến,
nhưng dần các cụ sẽ hiểu ra. Anh sẽ nhờ mọi người khuyên giải các cụ.
Gia đình chị Long cũng không tán thành cho
đôi trẻ tìm hiểu nhau. Bà Phúc mặc cái quần bằng vải Sa tanh đen, cái áo bằng vải
phin màu sữa đã xỉn màu, giãy nảy người,
giậm chân, khoát tay khi hay tin tụi trẻ hò hẹn, lại càng bực bội khi có người
nói đến tai bà: ông bà ấy không muốn thông gia với gia đình bà, bởi không môn
đăng hộ đối. Bà nói với chồng, giọng đay nghiến, cái miệng dẩu ra: Danh giá gì
chứ! Giàu có với ai mà khinh người thế. Đây cũng không thừa con gái mà gả chồng
vào nhà ấy nhé. Bà gọi chị Long nói: chị ngồi xuống đấy cho bố mẹ nói chuyện.
Chị Long khép nép hãi sợ ngồi xuống cuối giường. Bà Phúc nói: bố mẹ không tán
thành việc con gặp gỡ với thằng Chính. Con người phải có cái sĩ diện. Là phụ nữ
phải biết giữ gìn- bà nói và nhìn con gái vừa giận, vừa thương- thầm nghĩ-
thương con mẹ để trong lòng thôi. Mẹ làm tất cả chỉ vì hạnh phúc của chúng mày.
Ông Phúc nói: tao cấm chỉ con gặp gỡ cái thằng ấy. Nếu con không nghe lời, bố mẹ
coi như không có người con gái này- Ông Phúc thầm nghĩ: Trai làng thiếu gì cơ
chứ. Khối người đánh tiếng ông bà đã duyệt cho đâu. Bà Phúc nói chậm có vẻ chua
chát: Không cẩn thận làng người ta dị nghị cho là đồ theo trai đấy, có hiểu
không! Tôi nói chị phải nghe. Những lúc ấy lòng chị Long như trăm mối tơ vò,
nhiều lần nghĩ: thôi thì quên anh ấy đi! Quên đi! Đau khổ thì cũng như vết
thương, rồi lành lại. Trong nhiều ngày trời chị tránh mặt, không gặp anh, để rồi
nỗi nhớ làm chị như điên như dại. Chị hiểu nếu mất anh, lòng chị tan nát! Chị cần
có anh cho cuộc sống của mình.
Đúng là phải duyên phải
số nó vồ lấy nhau. Hai gia đình càng ngăn cấm, anh chị Chính lại càng lao vào
nhau, tình yêu bị ép nén lại càng bùng lên thành ngọn lửa lòng dữ dội. Chị Long vẫn vượt được hàng rào dâm bụt cho
dù trồng ken dày đến đâu. Anh Chính bị bố mẹ quản lý trong gian buồng mỗi khi tối
về vẫn có thể ra ngoài tới nơi mà họ vẫn cùng nhau tình tự. Vào những đêm trăng
thu, mặt sông Hồng phẳng lặng như gương, không biết bao nhiêu là sao là trăng lặn
ngụp nơi đáy nước, thoảng nghe tiếng cá quẫy và tiếng con nước trườn nhẹ nhàng
ve vuốt bờ bãi và tiếng gió nhẹ xao xác
hàng tre nơi chân đê- chị Long hỏi: cá gì to thế không biết? Anh Chính: có thể
cá chép đấy, nó đang vật đẻ. Chị Long giật nảy người lên cãi: Giờ làm gì còn cá
vật đẻ. Anh Chính: ừ nhỉ! Thì anh nhầm! Dường như say chuyện, anh Chính kể: em
có biết không, loài cá thật kỳ lạ, đến mùa sinh sản, chúng tìm chỗ nước chảy.
Con cái vật vã ép bụng đẻ trứng, con đực theo sau tưới tinh trùng lên trứng, thế
mà cũng thụ tinh được. Cá trứng theo
dòng chảy phân tán đi khắp nơi.... Họ ngồi bên nhau e ấp, cách nhau một khoảng
đủ để an toàn. Cứ ngồi thế nhỏ nhẹ với nhau bằng thứ ngôn ngữ dịu ngọt, trìu mến
tràn đầy cảm xúc tình yêu. Cũng có lúc họ ngồi cạnh nhau trên triền đê. Trời đất
bao la đầy gió, đầy mùi hương của hoa dứa dại. Chị Long lo lắng nói: em chỉ sợ
bố mẹ vì chúng mình mà…..bố mẹ em nói sẽ từ em nếu còn gặp gỡ anh. Đôi lúc em
nghĩ hay là chúng mình thôi đi! Anh Chính:
sao em lại nói thế!Bố mẹ cũng vì hạnh phúc của con cái mà thôi. Bố mẹ xử sự như thế là vì các cụ chưa
hiểu, các cụ định kiến, các cụ vô hình dung vì chính các cụ mà thôi. Mình phải
khéo giải thích em ạ. Khi thấy chúng mình hạnh phúc là các cụ nguôi ngay. Rồi
em xem…. Và rồi tình yêu một ma lực quyến rũ không cùng, vượt qua nỗi e thẹn, ý
tứ, sợ hãi lúc ban đầu, vượt qua bao rào cản của gia đình, họ quấn quýt, vội vã..nụ
hôn đầu tiên trong đời, mặn mòi mồ hôi, có mùi thơm của sả, của đồng nội, lúc ấy
họ trong cảm xúc ngây ngất tan hòa vào
trong sự không cùng của đất trời.
Đám cưới của anh chị Chính
được chi đoàn tổ chức tại sân kho hợp tác. Bố mẹ anh Chính cho gọi chú Lự nói:
chú không được đến đám cưới, không được nối giáo cho giặc Chú Lự thương cháu, mặc
dù bị ông anh bà chị ngăn cản vẫn đến đại điện cho họ nhà trai. Bên phía gia đình chị Long có chú Ngạn đại diện.
Hôm ấy còn có đại diện của chính quyền, đoàn thanh niên.
Đôi trẻ chung sống với nhau trong căn nhà mái rạ thuê của một
gia đình rời làng đi làm ăn xa, tường trình bằng đất, lụp xụp, trước nhà là cái
sân tam hợp, cây cau đứng bên cạnh cái chóe đựng nước. Đêm tân hôn, mặc dù đã mệt
nhoài, sực nhớ đến lời phát biểu của vị đại diện cho ủy ban xã anh Chính trong Chính
trạng thoải trống bỗng trồ dạy nói: này em! Ông Bình phát biểu thế nào nhỉ: được
phép của chính quyền địa phương và đôi bên gia đình sau thời gian tìm hiểu
nhau, nay….. Anh Chính nói rồi cười khich khích. Chị Long cũng trong trạng thái
mệt mỏi hạnh phúc lấy tay bấu bấu vào người chồng nói: anh chỉ được cái hay
đùa. Người ta nói văn miệng thế thôi…Anh cứ..!
Vào mùa xuân, khi hoa gạo
lác đác thắp những ngọn lửa đỏ trên cành cũng là mùa cá mòi. Hàng năm vào độ
này, khi qua tết âm lịch, giá rét đã bớt đi, mưa xuân sáng, chiều lắc rắc vào
không gian những hạt lây rây nhỏ xíu và sương mù bay lơ lửng trong vườn là cá
mòi ngược từ biển vào, chúng ngược
theo dòng sông để vật đẻ. Anh Chính sắm
được chiếc thuyền nan, mua nhựa đường cho vào cái chảo hỏng đun cho chảy, đoạn
lấy chổi lông nhúng quét lên mặt ngoài,
mặt trong của thuyền, cũng mua được tấm lưới tướng, loại lưới làm bằng sợi gai
bền chắc có sâu độ tới vài mét. Sông Hồng vào dịp này mặt nước đục lờ. Trên mặt
sông những chiếc thuyền nan bé tí xíu dập dềnh, dập dềnh trên mặt sóng. Dân
làng không chỉ đánh cá vào sáng sớm còn vào cuối chiều và buổi khuya. Vào đêm
những tấm lưới được mắc thêm vài ngọn đèn hoa kỳ đặt trong những chiếc chai úp
ngược. Những chiếc đèn cũng bập bềnh, bập bềnh theo lưới trên những con sóng.
Anh Chính dạy lúc khoảng
3 giờ sáng, nhiều gia đình cũng đã đỏ đèn, tiếng người gọi nhau í ới, cũng như
anh họ dạy sớm để chuẩn bị cho một ngày ra khơi. Anh Chính vác lưới nhanh nhẹn
theo ngõ nhỏ ngoằn nghèo giữa các khóm
tre, chuối xuống bến cá. Bến cá đã có người, mọi người gỡ lưới nhặt cá trong
ánh sáng của những chiếc đèn măng sông và mặt sông lúc này lác đác đã có những
đốm lửa đèn dập dềnh. Anh đưa thuyền xuống nước, đặt lưới lên dóng ngang, bước
xuống lòng thuyền, ngồi trên chiếc ghế con đặt trong lòng thuyền, dùng mái chèo
chống vào bờ đất, đẩy mạnh cho thuyền tách khỏi bờ rồi với hai mái chèo to bản
vung tay từng nhịp, từng nhịp mạnh mẽ khỏa nước. Con thuyền dường như cũng phấn
chấn với chủ của nó, đè sóng chếch về mạn ngược ra giữa dòng. Anh Chính miệng cắn
đốc lưới, tay trái khỏa mái chèo giữ cho con thuyền trôi đúng hướng, tay phải gỡ
từng xấp lưới thả xuống mặt nước. Thả lưới xong anh cho con thuyền trôi theo
dòng, đắm mình trong không gian của đêm về sáng. Gió và sương lạnh, tiếng nước
vỗ lọp bọp vào mạn thuyền làm anh cảm thấy mát mẻ, thư thái vô cùng. Lát nữa thôi là thuyền đầy cá, Long
đang đợi anh ở bến. Anh thầm cảm ơn đất trời với sự hào phóng của nó đã cho anh
những giây phút hạnh phúc không bờ bến khi con người biết trân trọng, nâng niu
và cảm nhận.
Giờ đã đến lúc thu lưới,
phía đông, trời đã hừng sáng, chân trời nhuộm một màu hồng, ban mai đang bừng
lên trên mặt sông đầy sương khói. Anh tay trái khỏa nước, tay phải nhấc từng
giường lưới cho vào lòng thuyền. Những con cá mòi trắng to và mẩy vướng trong
những mắt lưới, có cả những con thờn bơn, thi thoảng có con cá cháy dính lưới,
thu lưới xong anh quay thuyền, từng nhịp, từng nhịp chèo cho con thuyền về bến
cá.
Sáng nào cũng vậy, tầm
6 giờ là chị Long ra bến cá, cắp theo cái mẹt thưa, cái rổ sảo để đựng cá,
không quên mang theo hăng gô quân dụng cơm cho chồng. Chị sung sướng nhìn chồng
và con thuyền đang cặp bờ.
Anh Chính cho thuyền
vào bờ, kéo thuyền lên bãi. Chị Long khuôn mặt tươi rói gỡ từng con cá khỏi mắt
lưới cho vào rổ. Anh Chính ngồi cạnh đó trên khoảng đất cao, giở hăng gô cơm
ăn. Mùi cơm thơm quyện với mùi cá kho thơm sực nức. Anh ăn ngấu nghiến, lòng ấm
lại sau đêm thức cùng con thuyền ra khơi. Anh nhìn chị Long, thấy cái bụng vợ
thây nẩy mỗi ngày một to, lòng sung sướng vô cùng. Anh sờ vào cái bụng tròn
tròn của vợ nói: em làm cái gì cũng phải cận thận đấy. Việc nặng nhọc đừng mó
vào, để đấy cho anh. Ồ không biết là thằng cu hay cái hĩm đây? Vừa nói anh vừa cười cười khiến chị Long cũng
vui lây. Chị Long lườm yêu chồng: anh chỉ được cái hay tếu….!
Chị Long đội thúng cá
lên chợ làng. Chợ làng họp ngay trên mặt đê, lúc bấy giờ nhà dân làm dọc theo
hai sườn đê tạo thành khu phố sầm uất. Chợ họp vào mỗi sáng hoặc cuối chiều. Cá
được bày bán trên những chiếc mẹt thưa hoặc trong những chiếc chậu nhôm. Đủ loại
cá, những con bống da nâu sần sùi đôi mắt lồi to, cá ngạnh lưng xám, bụng trắng,
miệng đầy râu, phồng mang thở, cá lăng giống cá ngạnh nhưng to và trường con, mình
tròn hơn, cá cháy mình trắng lóa, song chủ yếu vẫn là cá mòi, con nào con nấy
to mẩy, bụng đầy trứng.
Chỉ một lát thôi chợ cá
đã vãn, thưa người dần, chị Long vội xuống bến, cùng anh Chính gỡ lưới. Chị
Long tay cầm thoi chao đi chao lại vá lại chỗ lưới rách, xếp lưới chuẩn bị cho
một buổi mới.
Vợ chồng anh Chính có đứa
con trai đầu long đặt tên là Minh. Anh Chính bảo tên bố là Chính, tên con ắt phải
là Minh rồi. Khó khăn nhưng tình yêu đã cho họ sức bật mạnh mẽ, hơn hai năm sau
họ đã cất được nếp nhà mới. Chị Long hết đi vào lại đi ra ngó nghiêng mọi góc mọi
chỗ, niềm vui hạnh phúc có được ngôi nhà như con chim có tổ ấm, khiến chị sững
sờ khó tin. Ông bà nội thấy vợ chồng anh Chính ăn lên làm ra, lại có con trai
thì mừng lắm, bao nhiêu giận dữ trút hết, thế nhưng không ra mặt làm lành. Ông
bà thường xuyên sang thăm bế cháu nội, mua đủ các thứ bánh trái, đồ chơi cho
cháu. Vừa bế cháu bà vừa nói: bố mày là cái thằng rắn mặt.hì….hì… nó rắn mặt lắm
cháu bà nhỉ! Bố mẹ chị Long cũng hài lòng trước hạnh phúc của con gái. Hai bên
thông gia chính thức hòa hợp vì con vì cháu.
Tôi nhớ lại vào cuối
năm 1966, làng rộ lên phong trào tòng quân vào nam chiến đấu. Anh Chính cũng
trong số ấy, được gọi nhập ngũ. Ngày ấy người ta chỉ chọn những nam thanh niên
sức khỏe loại A. Sau hơn năm huấn luyện, anh được điều đi B. Từ đấy chị Long bặt
tin anh Chính. Cho tới một ngày vào một buổi sáng, khi đang cày ruộng, bỗng có
người gọi: cô Long ơi về nhà có khách! Chị Long hỏi: khách nào thế? Đó là một
anh bộ đội- đứa trẻ mách. Buông tay cày, cũng chẳng tháo trâu ra khỏi bắp cày,
quần còn xắn tới gối, chị tất tả chạy về
nhà. Linh tính báo chị biết đó là đồng đội
của anh Chính. Bao năm rồi kể từ khi anh vào Nam, chị ngày đêm mong thư anh, chờ
tin anh, cầu mong cho anh được vẹn toàn. Chị luôn nghĩ về anh, nhớ về anh, nỗi
nhớ da diết khiến lòng chị bồn chồn như có lửa đốt.
Sau chén nước trà, chị
Long chủ động hỏi: Anh cùng đơn vị với nhà tôi? Vâng! Giới thiệu với chị tôi
tên Năm. Tôi cùng đơn vị với anh Chính, nhập ngũ cùng ngày, cùng một đơn vị huấn
luyện, cùng tiểu đội. Nhà tôi cũng ở huyện này. Khuôn mặt anh Năm lộ rõ vẻ
thương cảm, khiến chị Long lo lắng. Thế anh Chính có khỏe không? Sao mấy năm rồi
không có thư từ tin tức gì về nhà? Sao anh ấy gan lỳ đến thế, không biết vợ con
ở nhà đứng ngồi không yên, hàng ngày trông ngóng?
Yên lặng giây lát, anh
Năm kể xa xôi, miễn cưỡng, dường như anh không đủ dũng cảm để nói tiếp. Chị
Long chột dạ hỏi: có chuyện gì với nhà em hả anh? Anh Năm lại yên lặng,
nhìn chị Long bằng ánh mắt và vẻ mặt lộ
rõ sự thương cảm chia sẻ- Anh Năm tiếp- Vào một trận công đồn….khi đơn vị rút
ra ngoài, không thấy anh Long. Từ xa nhìn lại, xe tăng địch đang nống ra ngoài.
Đơn vị đã tìm nhưng … . Chỉ nghe được đến đó, tai chị Long đã ù lên, chị bàng
hoàng, thảng thốt, rồi lả đi, sững sờ, lát sau mới bật khóc. Những giọt nước mắt
long lanh nóng hổi lăn dài xuống má. Thằng Minh đứng nép bên cửa nhìn mẹ khóc.
Còn rất bé nhưng nó hiểu có điều gì nghiêm trọng xảy ra với bố. Nó hiểu mẹ rất
đau xót. Nó thấy thương mẹ, cũng mủi lòng khóc.
Sau khi có tin anh Chính
hy sinh, xã bố trí cho chị làm công tác phụ nữ, hơn năm sau, vì những thành
tích với công tác này, chị được rút lên huyện làm việc. Chị Long lao vào công
việc phần nhiệt tình, phần như muốn quên đi nỗi đau đớn như thắt lòng. Chị thường
xuyên đạp xe về các xã dự đại hội, chỉ đạo các hoạt động phong trào phụ nữ. Tất
nhiên có nhiều người đồng cảm chia sẻ với những mất mát của chị, đến với chị,
nhưng đều không lay chuyển được ý định muốn đứng vậy nuôi thằng Minh. Người làm
chị Long phải đắn đo nhiều nhất là anh Phong vốn là công an ở huyện. Anh Phong
gần bốn mươi tuổi vẫn chưa vợ. Người bảo anh kén vợ, lười không chịu tán gái.
Thằng Minh cũng quí anh. Anh Phong thường đạp xe đưa thằng Minh đến nhà trẻ,
chơi đùa với nó mỗi khi sang nhà. Anh Phong nói với chị Long: em cho anh cơ hội
để trông nom em và thằng Minh. Anh chưa từng nói điều này với cô gái nào! Anh thấy rất thương em, muốn
chia sẻ khó khăn với em. Lòng chị Long xốn xang khi nghe anh Phong nói. Chị
nói: em biết anh thương mẹ con em! Em cũng rất quí anh! Nhưng em không thể! Anh
đừng làm em rối bời hơn nữa! Thật ra lòng chị lúc nào cũng khao khát tình yêu,
mong muốn trọn vẹn trong hạnh phúc gia đình..Mỗi khi nhìn con, chị lại nhớ tới
anh Chính. Càng lớn thằng Minh càng giống cha nó, cứ như hai giọt nước. Chị
thương con, nhủ thầm: mẹ sẽ không tái hôn nữa con ạ. Mẹ không muốn con phải sống
trong cảnh cha nọ em kia. Mẹ sẽ dành tất cả tình yêu cho con. Còn một điều khác
nữa, dường như chị đã dành tình yêu cho anh Chính trọn vẹn, không sẵn sàng đón
nhận tình cảm mới. Trong chị hình ảnh anh ấy đậm nét, và chị luôn có cảm giác rằng
ở đâu đó anh vẫn sống, vẫn nhớ thương chị.
Vào một chiều chủ nhật,
mặt trời dần xuống bên kia sông, những con chim nhạn, chim sáo liệng bay trên
triền đê. Phía tây hoàng hôn một màu tím thẫm man mác. Chị Long vừa từ ngoài
bãi về, dọn dẹp quanh nhà, chẳng hiểu vì sao mấy ngày nay chị luôn có cảm giác
nóng ruột, đôi lúc hắt hơi…chị Thầm nghĩ: chẳng biết có chuyện gì xảy ra đây.
Chiều nay không hiểu sao con chim chào mào cứ đậu trên khóm lá sầu đông trước
nhà hót lanh lảnh……..Dường như chị nhìn thấy anh bộ đội nào đó cao lớn theo ngõ
nhỏ về nhà chị. Chị Nhìn ra ngõ, không thấy ai, lòng chợt trở lên buồn bã.
Nhưng linh tính cứ mách bảo chị điều đó, chị không thôi với hình ảnh ấy. Chị lại
ngóng ra ngõ, rõ ràng có ai đó đang theo ngõ nhỏ vào nhà..đôi mắt chị hoa lên.
Khi anh Chính bước vào sân, chị vẫn không tin vào mắt mình. Có thật không, đây
là anh Chính của chị. Chị Chẳng nói được câu nào, cứ luống cuống mãi. Thật lòng
anh Chính muốn ôm vợ vào lòng ghì chặt, cho thỏa nỗi nhớ nhung bao lâu, kể cho chị nghe những năm tháng nơi chiến trường
khốc liệt, nhưng anh không làm thế, sững lại nhìn vợ giây lát rồi vào nhà, đặt
chiếc ba lô xuống giường, trong lòng những cảm xúc tình yêu khiến cho hơi thở
thêm gấp gáp. Chị Long theo anh vào nhà.
Hai vợ chồng nhìn nhau chẳng nói được lời nào.
Trời ơi! Lúc này chị
Long như reo lên trong lòng. Anh ấy đã về thật. Anh Chính của chị đã về thật.
Những giọt nước mắt hạnh phúc của ngày gặp mặt long lanh trào ra mặn mòi. Chị
trách: người gì mà ngoan cố, không biết người ta ở nhà lo lắng bảy tám năm trời,
đi biền biệt tới nay không một tin tức gì. Không thương người ở nhà sao? Anh Chính
kể bằng giọng rời rạc đứt quãng vì cảm xúc: chiến sự ác liệt lắm, nhiều lần anh
kề cận với cái chết. Anh cũng có gửi thư cho em, nhưng có thể bị thất lạc. Chuyện
này anh sẽ kể em nghe. Anh còn sống đã là một kì tích rồi.
Đoạn
kết
Tôi và ông Chính ngồi nghe âm hưởng của những con
sóng sông Hồng gõ nhịp thời gian lặng lẽ mà thôi thúc, bồi hồi tha thiết nhớ lại
những kỷ niệm của một thời. Tôi hỏi ông: Sau khi từ chiến trường trở về ông còn làm việc ở đâu?
Ông Chính trả lời: Trở về hậu phương, tôi được xếp làm việc ở một huyện đội, hàng
ngày bận rộn với công tác tuyển quân, huấn luyện dân quân cho các xã trong huyện….Như
vậy vợ chồng ông có điều kiện sống bên nhau, chăm sóc lẫn nhau- Tôi nói. Ông Chính cười, nhìn tôi nói: bà ấy nhà tôi
cũng bận suốt, thường chúng tôi chỉ gặp nhau trong ngày vào bữa ăn trưa và vào
buổi tối. Chuyện giữa chúng tôi đến đấy thì bà Long về, tay xách cái làn mây đựng đầy rau quả. Bà Long tóc cũng đã hoa
râm, khuôn mặt tươi tỉnh khi nhìn thấy tôi. Chú Cường! Tôi mỉm cười nhìn bà
Long nói: Bà vẫn nhận được ra em? Có chứ! Người cùng làng mà. Vả lại ngày xưa bọn
chị tổ chức hoạt động thiếu niên, dạy các chú hát, xếp hình suốt. Chú vẫn giữ
được nét mặt như thời xưa. Tôi nhìn bà Long vui vẻ nhớ lại câu chuyện tình của
bà với ông Chính ngày trước. Thầm nghĩ mấy chục năm trôi qua, giờ đây ở quê chỉ
có hai vợ chồng ông bà. Tuổi già sống với nhau vì nghĩa, hàng ngày bà bận rộn với
công việc cơm nước, quét dọn và chăm sóc ông, kỳ cái lưng cho ông mỗi khi ông tắm, lo lắng cho ông mỗi khi trái nắng trở trời.
Tôi nhớ đến câu chuyện của một ai đó về vợ chồng chim câu: khi một trong hai
con chết con kia bay đi rồi tấp vào đâu đó nhịn ăn cho đến chết. Loài chim câu
vì thế là biểu tượng của sự chung thủy và hạnh phúc đôi lứa của con người.
Tôi hỏi ông Chính: thế
ông không tham gia vào công tác ở xã? Ông Chính: các anh ấy cũng nhã ý mời tôi
tham gia công tác Đảng. Họ nói: Đảng bộ rất cần những người có kinh nghiệm như
bác, có độ tuổi và đã tham gia công tác trong quân đội. Bác có uy tín với mọi
người, tiếp tục công tác để dìu dắt lớp trẻ. Tôi nói:trong xã còn nhiều đồng
chí đang độ chín, được học hành có bằng cấp, nên để họ phát huy sức sáng tạo của
tuổi trẻ- Ông Chính ngưng lại giây lát rồi tiếp tục bằng giọng trầm đục- Nói vậy
thôi. Biết đâu mình ra làm việc, vô hình dung lại cản trở các cậu ấy. Tôi có
ông bạn cùng đại đội với nhau thời chống Mĩ, về hưu, được đảng bộ xã tín nhiệm
bầu làm bí thư Đảng ủy, được hơn năm không thể thích ứng, nên xin thôi gấp. Nói
thật! Cậu ấy bỏ, nếu không chẳng khác nào con dê miệng nhúng bột. Tôi nhìn ông
tủm tỉm cười, thầm nghĩ: đúng là anh Chính ngày xưa. Ông Chính tiếp tục: các cậu
ấy ngày nay táo tợn lắm, ráo riết lắm. Vậy thôi, tôi vẫn tham gia vào câu lạc bộ
hưu trí, hội người có tuổi ở địa phương, gặp nhau, hội họp làm con người có cảm
giác gắn bó với cộng đồng làng xã. Thời gian còn lại tập thể dục và đan rổ rá.
Tôi hỏi ông: thế ông
còn đặt cụp?
Không! Giờ đi đặt cụp
cũng không được cá đâu.
Thế còn vào vụ cá mòi,
ông còn đi đánh cá? Tôi hỏi tiếp. Nói thật-
Ông Chính nói- tôi vẫn có thể chèo thuyền, buông lưới. Nhưng tự lâu rồi làng mất
đi cái nghề đánh cá mòi, mất luôn nghề đan lưới. Sao hả ông? Tôi gặng hỏi. Ông Chính
như hơi bực mình nói xẵng: thì người ta
dùng điện đánh cá, dùng lưới quét dài chăng ngang sông để bắt cá. Thử hỏi cá
nào còn sống được. Hiếm có con mòi nào vượt lên đến khúc sông này.
Tôi và ông lại chợt ưu
tư, hình như cùng theo đuổi một suy nghĩ về một thời thiên nhiên hào phóng chở
che dung dưỡng cư dân nơi đây, thăng hoa tình yêu đôi lứa. Ngoài kia sông Hồng
vẫn rì rầm nước chảy, tiếng sóng thúc vào không gian, vào kí ức con người. Dòng
sông bên lở bên bồi, giấu vào lòng bao nhiêu là chuyện, và nó nhỏ nhẹ kể trong
đó có chuyện tình yêu của anh Chính, chị Long; chuyện về những mùa cá vật đẻ.
Hưng
Yên, tháng 7, năm 2012
Hồ Ngọc Vinh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét