Chương 4: Phương pháp dạy học trong đào tạo nghề
4.1.
Khái niệm về phương pháp và phương pháp dạy học
(PPDH)
Thuật ngữ “ phương pháp” có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp “ Methodos có nghĩa là con đường, cách thức, phương tiện để đạt
tới mục đích nhất định. Theo Angel: phương pháp là hình thức vận động bên trong
của nội dung. Nó gắn liền với hoạt động của con người, giúp họ hoàn thành những
nhiệm vụ phù hợp với mục đích đã đề ra. Bởi vậy, phương pháp bao giờ cũng có
tính mục đích, tính cấu trúc và luôn gắn liền với nội dung, có ảnh hưởng tới trở lại nội dung làm
cho nội dung ngày càng phong phú.
Phương pháp dạy học là
tổng hợp các cách thức làm việc của thày trò. Trong quá trình thực hiện các
cách thức đó, thầy giữ vai trò chủ đạo, trò giữ vai trò tích cực, chủ động
chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng và thái độ ở bài học hay môn học. Phương pháp
không phải bản thân sự hoạt động mà chỉ là cách thức xác định tính chất, phương
hướng và trình tự tiến hành hoạt động nào đó, muốn trực tiếp nhằm biến đổi đối
tượng, hay nhận thức đối tượng lại là quá trình dùng các thao tác, các cử
động phù hợp với tính chất của phương pháp đó quy định với sự hỗ trợ của hệ
thống những thủ thuật phương pháp thích hợp.
Trong quá trình dạy
học, phương pháp là một trong các thành tố cấu trúc cơ bản quan trọng nhất.
Cùng một nội dung, nhưng người học có thể lĩnh hội bằng hệ thống các cách thức
phương pháp khác nhau, kết quả ở những mức độ không giống nhau. Điều quan trọng
ở đây là bằng hoạt động dạy, giáo viên đặt người học vào các tình huống, qua đó khuyến khích tích
tự giác tích cực, tự lực của học sinh trong nhận thức, điều kiện để đảm bảo
việc chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chất lượng và hiệu quả. Do vậy giáo
viên cần chú ý ngay từ khi lập kế hoạch bài giảng không chỉ chú trọng tới việc lựa chọn cách thức
phương pháp dạy mà con phải chú ý tới những hoạt động học học sinh cần thực
hiện để tương tác với nội dung nhằm chiếm lĩnh nó.
Mặc dù chưa có ý kiến
thống nhất về định nghĩa khái niệm phương pháp dạy học, tuy nhiên các tác giả
đều thừa nhận rằng phương pháp dạy học có một số đặc trưng sau:
· Nó
phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt mục tiêu đề
ra
· Phản
ánh sự vận động của nội dung đã được nhà
trường quy định
· Phản
ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thày và trò
· Phản
ánh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức, kích thích và xây dựng động cơ,
tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động.
4.2. Phân loại phương phương pháp Dạy - Học.
LLDH ngày nay vẫn chưa có sự thống nhất về
cách phân loại. Sau đây có thể trình bày một số cách phân loại của các nhà LLDH
như sau:
Xét về phương diện các khâu của quá trình dạy
học phương pháp được phân ra chia thành:
Các phương pháp truyền thụ tri
thức, các phương pháp hình thành kỹ năng kỹ xảo, các phương pháp củng cố- kiểm
tra tri thức kỹ năng kỹ xảo.
Phân loại theo đặc điểm hoạt động nhận thức của người học, có các
phương pháp: giải thích, minh họa,tái hiện,giới thiệu vấn đề, tìm kiếm từng
phần, nghiên cứu..
Phân loại theo đặc điểm của hoạt động dạy học có các phương pháp:
thông báo, thu nhận, giải thích, tái hiện, thiết kế , thực hành, kích thích và
tìm kiếm.
Dựa theo nguồn gốc thông tin và những đặc điểm tri giác thông tin của
người học có các phương pháp: sử dụng ngôn ngữ, trực quan, thực hành…..
Phân loại theo lý thuyết dạy học truyền thống có các phương pháp:
thuyết trình, vấn đáp, trực quan, luyện tập, củng cố, kiểm tra..
Theo mặt bên trong và bên ngoài: Mặt bên ngoài có các hình thức phương
pháp dạy: thuyết trình, đàm thoại, dự án, hình thức lớp- bài, hướng dẫn, làm
mẫu; các hình thức tổ chức học gồm học theo lớp, học theo nhóm, học theo tổ,
đôi bạn học tập..v.Mặt bên trong có các phương pháp theo cấu trúc hoạt động
nhận thức của người học như: phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phát
triển lịch sử…và cấu trúc
logic của quá trình dạy học.
Ngoài ra còn có thể phân biệt phương pháp
dạy học theo các mô hình lí luận dạy học,
hệ thống phương pháp dạy học được phân biệt thành các hình thức phương
pháp dạy học độc thoại gồm: các phương pháp thuyết trình, làm mẫu… và các hình thức phương pháp
dạy học tương tác gồm: đàm thoại, làm việc theo nhóm, thảo luận..sử dụng phiếu
hướng dẫn..vv.
4.3. Hệ thống các phương pháp dạy học
4.3.1. Nhóm phương pháp sử dụng ngôn ngữ
1 Phương pháp thuyết trình: mô hình dạy học độc thoại
- Thuyết trình: Là dùng lời trình bày một
vấn đề trước nhiều người.
- Phương pháp thuyết trình được hiểu như
người dạy bằng lời nói sinh động của mình thông báo tới người học nội
dung học tập, người học có nhiệm vụ nghe, nhìn, ghi chép và ghi nhớ tái hiện.
Phương pháp thuyết trình được chia thành 3
phương pháp thuộc nó: Giảng thuật, giảng giải và diễn giảng.
- Giảng thuật: Là phương pháp dùng lời chứa đựng những yếu
tố trần thuật, tường thuật, kể chuyện,
thường dùng để trình bày các kiểu nội dung cấu tạo, sự kiện, quy trình theo
đúng các đặc điểm hay diễn biến của sự vật, hiện tượng, sự kiện,... đã diễn ra
trong thực tế.
-
Giảng giải, giải thích (hay còn gọi là cắt nghĩa): là phương pháp thuyết trình trong đó giáo
viên kết hợp giữa ngôn ngữ với các luận cứ, những hiện tượng có thực để giải
thích, chứng minh các nguyên tắc, quy tắc, định lý, định luật, công thức, thuật
ngữ, mệnh đề..vv.
Khi giảng thấy những thuật ngữ, công thức
mới lạ, có thể cần giải thích trớc sau đó mới giảng nội dung bài.
Giảng giải thường chứa đựng các yếu tố
suy luận, phán đoán và có tiềm năng phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh.
- Giảng diễn (diễn giảng): Là trình bày một nội dung hoàn chỉnh mang
tính phức tạp trừu tượng và khái quát hoá một thời gian dài.
ứng dụng: Khi dùng PPDH này, người
dạy thường viết dàn ý lên bảng, nêu bật những nội dung cốt lõi của bài, sau
đó, đào sâu, mở rộng liên hệ thực tiễn, cũng có thể đưa thêm lời bình hay quan
điểm của mình, cuối cùng tóm tắt, kết luận vấn đề. .
Nhìn chung, ba PPDH trong thuyết trình đều
theo một lô gíc nhất định, các bước tiến hành như sau: Đặt (nêu) vấn đề, phát
biểu vấn đề, giải quyết vấn đề, kết luận vấn đề.
+ Nêu vấn đề: Thường thông báo dưới
dạng chung nhất, nhằm gây sự chú ý ban đầu của học sinh, tạo tâm thế bắt đầu
vào công việc.
+ Phát biểu vấn đề: Người dạy đa
ra những vấn đề cụ thể, khoanh vùng nghiên cứu, đưa học sinh vào hoàn cảnh sẵn
sàng, chấp nhận vấn đề, có nhu cầu, mong muốn giải quyết.
+ Giải quyết vấn đề: Tùy vào đặc điểm của nội dung hoạt động giải
quyết vấn đề có thể theo một trong các lô gíc sau: phân tích- tổng hợp quy nạp
hay diễn dịch..
+ Kết luận vấn đề: Là lúc kết thúc
công việc nghiên cứu, người dạy tóm tắt những nội dung cốt lõi, cơ bản dưới
dạng khái quát hóa, đồng thời gây ấn tượng mạnh mẽ cho người học, làm cho họ dễ
ghi nhớ, lâu quên. Cơ chế hoạt động của phương pháp thuyết trình được mô tả
theo sơ đồ dưới đây.
Sơ đồ: Phương pháp thuyết
trình
Phương pháp này có hạn chế, làm cho người
học luôn ở trong tu thế thụ động tiếp thu kiến thức, đây là kiểu dạy học độc
thoại không ít có biểu hiện phản hồi; tuy nhiên có ưu điểm là trong một thời gian nhất định có thể truyền thụ một
khối lượng kiến thức lớn. Giáo viên khéo léo vẫn có thể kích thích tư duy ở
học sinh. Vấn đề là cần đổi mới các biện pháp nhằm tạo tình huống có vấn đề khi
thuyết trình để thu hút sự chú ý, hình thành động cơ học tập trong thuyết trình.
Đối với phương pháp thuyết trình, lời
nói của giáo viên ngắn gọn, dễ hiểu, giàu hình tượng là hết sức quan trọng.
Thuyết trình cần phù hợp với đặc điểm
của nội dung và mục tiêu học tập.
Trong thuyết trình cần chú ý phối hợp
ngôn ngũ nói và ngôn ngữ hình thể của giáo viên nhằm biểu đạt sinh động nội
dung học tập.
Cần phối hợp với việc sử dụng các
phương tiện trực quan như:sơ đồ,
mô hình, tranh ảnh cho học sinh quan
sát. Ví dụ minh họa cần đại điện phù hợp với thế giới kinh nghiệm của người
học.
2 Phương pháp đàm thoại-
môhình dạy học tương tác
- Đàm thoại thực chất là phương pháp trong đó thầy đặt ra một hệ thống các câu hỏi
trò lần lượt trả lời, đồng thời có thể trao đổi qua lại giữa thầy- trò, trò-
trò dưới sự chỉ đạo của thầy.
Thông qua hỏi- đáp, trò lĩnh hội được nội
dung dạy học. Như vậy, hệ thống câu hỏi và đáp là nguồn cung cấp nội dung giúp
cho việc lĩnh hội tri thức.
Có nhiều cách phân loại phương pháp đàm
thoại. Theo phương diện mục tiêu dạy học, đàm thoại có thể được phân ra thành các phương pháp: đàm thoại
kiểm tra đánh giá, đàm thoại truyền đạt
tài liệu mới, đàm thoại hệ thông củng cố. Theo phương diện tính chất hoạt động
nhận thức của người học có thể phân biệt thành các phương pháp sau:
- Đàm thoại tái hiện:
+ Nội dung phương pháp: Thầy đặt ra
câu hỏi, trò nhớ lại và trả lời trực tiếp làm sao cho đầy đủ ý mà câu hỏi đặt
ra.
+
Cách thức và phạm vi áp dụng: khi
kiểm tra bài cũ, kiến thức cũ, nêu câu hỏi trước để học sinh có thời gian suy
nghĩ, sắp xếp nội dung theo lôgíc nhất định rồi trả lời. Nếu đúng, đủ, giáo
viên tổng kết và kết luận. Nếu chưa đúng, đủ thì có thể gọi học sinh khác để bổ sung thêm, sau
đó giáo viên có thể hệ thống lại.
- Đàm thoại giải thích- minh hoạ:
+ Trong phương pháp đàm thoại này,
giáo viên cần phân tích nội dung, cấu trúc nội dung thành tập hợp các vấn đề,
mỗi vấn đề được đại diện bởi một hay một hệ thống câu hỏi. Giáo viên nêu và dẫn
dắt học sinh trả lời các câu hỏi. Trên cơ sơ này để thực hiện mục tiêu truyền
đạt và lĩnh hội kiến thức. Đàm thoại giải thích minh họa có thể dùng giải thích
thuật ngữ, mệnh đề, công thức, định lý,... vấn đề nào đó, trong đó có kèm theo
ví dụ minh hoạ, chứng minh.
- Phương pháp đàm thoại tìm kiếm
(Ơristic).
+ Đặc điểm nổi bật của phương pháp này là
xây dựng hệ thống câu hỏi theo hình thức nêu vấn đề. Câu hỏi có tính khái cao,
có thể làm xuất hiện tình huống có vấn đề.
+ Cách vận dụng: Mỗi nội dung (đề
mục)người dạy chia thành những vấn đề dưới dạng câu hỏi, mỗi câu hỏi chứa đựng một vấn
đề. Khi lên lớp, người dạy nêu tên bài thông báo mục tiêu dạy học cho học sinh
định hướng, nêu từng đề mục, đặt câu hỏi trước lớp để học sinh suy nghĩ, gọi học sinh trả
lời từng câu hỏi một (một học sinh hay nhiều học sinh tham gia). Nếu thầy thấy
đủ, đi đến tổng kết và đưa ra câu trả lời đúng, để học sinh nắm lĩnh hội.
+ Điều
kiện thực hiện phương pháp:
- Học sinh phải có chút ít hiểu biết và
kinh nghiệm về vấn đề đang bàn.
- Phải có tài liệu phát tay cho học
sinh nghiên cứu trước và kèm theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Cách thức thực hiện đàm
thoại:
Cách
1:
Cách 2:
Cách
3:
+Yêu cầu khi sử dụng phương pháp đàm
thoại
Yêu cầu với việc đặt câu hỏi:
-
Xác định rõ mục tiêu hỏi.
- Mỗi
câu chỉ chứa đựng một vấn đề
- Câu hỏi dạng ngắn gọn, dễ hiểu, sát với
trình độ phát triển của học sinh.
Yêu cầu đối với giáo
viên
- Tổ chức đàm thoại khéo léo, đặt câu hỏi cho
cả lớp, để thời gian cho học sinh suy nghĩ, sau đó gọi học sinh trả lời; nên
khuyến khích người học tham gia vào trả lời các câu hỏi. Học sinh trả lời đúng,
đủ cần nhận xét, khen ngợi; nếu học sinh trả lời được từng phần có thể gọi học
sinh khác bổ sung; nếu không trả lời được, có thể nhắc lại câu hỏi hoặc gọi học
sinh khác.
3.
Phương pháp làm việc với sách (giáo trình, tài liệu tham khảo)
Sách và các tài liệu học tập khác phản ánh
những kinh nghiệm đã được hệ thống, khái quát hóa trong quá trình phát triển
của lịch sử xã hội, đặc biệt là phản ánh những thành tựu mới nhất của khoa học
kỹ thuật công nghệ, văn hóa. Sách và tài liệu là nguồn tri thức vô cùng phong
phú, hấp dẫn cho sinh viên và học sinh. Theo kinh nghiệm để lĩnh hội củng cố
nội dung học tập, cứ một giờ lên lớp
người học cần hai giờ làm việc với sách và tài liệu tham khảo. Nếu sách được sử
dụng phù hợp mục đích, sẽ củng cố, mở rộng và đào sâu vốn kiến thức, rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo, bồi dưỡng năng lực nhận xét, năng lực phê phán, hứng thú học
tập, năng lực nghiên cứu và giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh.
Để sử dụng sách có chất lượng, hiệu quả về
phía người học, phải đọc sách với tác phong nghiên cứu, với sự tập trung tư
tưởng cao, có hứng thú,đọc có ghi chép với sự nhận xét, nêu ý kiến, quan điểm riêng.
Giáo viên cần thường xuyên đọc sách,
nghiên cứu tài liệu để không ngừng cặp nhật các thông tin mới về khoa học kỹ thuật, thích ứng với sự phát
triển xã hội. Giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức cho người học thực hiện nghiêm
túc quy trình đọc sách với hệ thống kỹ năng đọc sách phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ học tập và đặc điểm nhận thức của học.
Có hai cách thức tổ chức đọc sách đọc sách
trên lớp và đọc sách ở nhà:
- Đọc ở trên lớp: Căn cứ vào mục
tiêu bài, người dạy định trước khi lên lớp cho người học đọc những nội dung
cần học, họ đọc có thể hiểu được. Hướng dẫn đọc, khái
quát hoá, báo cáo trước lớp, thầy tổng kết- kết luận, học sinh ghi tóm tắt vào
vở theo cách riêng của mình.
- Đọc ở nhà: Hướng dẫn cho ngời
học đọc những phần nội dung sẽ giảng cho lần sau. Trên cơ sở mục tiêu bài để hướng
dẫn cho đọc (nội dung trong sách, tạp chí, bản vẽ, sổ tay kỹ thuật,...). Đọc xong ghi thành đề cương đánh dấu ở đề cương
những điều chưa hiểu, khi chưa lên lớp hỏi thầy, trao đổi với bạn, thầy tổng kết- kết luận. Người học trên cơ sở
đó hoàn thiện đề cương của mình.
4.3.2. Nhóm phương pháp trực quan
4.3.2.1 Cơ sở khoa học của phương pháp trực quan
.
a. Cơ sở triết học:
Bản chất của
quỏ trỡnh dạy học là tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh nhằm đạt được mục
đích dạy học. Con đường nhận thức đó được Lênin chỉ ra:“ Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức thực tại khách quan”. Theo quan
điểm này, trực quan là xuất phát điểm của nhận thức.Trực quan sinh động được
đặc trưng bởi quá trình tâm lý: cảm giác, tri giác hình thành biểu tượng. Sự
nhận thức này chỉ mới phản ánh thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện tượng., để
nhận thức bên trong cần xử lý trong óc những hình tượng cảm tính, loại bỏ những
khia cạnh ngẫu nhiên, biến đổi, giữ lại những dấu hiệu cơ bản. Bản chất của sự
vật, hiện tượng được nắm vững nhờ tư duy.
Như vậy trực
quan sinh động - nhận thức cảm tính và tư duy - nhận thức lý tính là những bộ
phận hữu cơ của quá trình lĩnh hội tri thức. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân
lý. Bản chất và quy luật cần được kiểm tra và đánh giá qua thực tiễn. Thực tiễn
“ cao hơn” này lại trở thành trực quan sinh động cao hơn cho quá trình nhận
thức. Quá trình nhận thức là sự thống nhất giữa trực quan sinh động và tư duy
trừu tượng với sự xâm nhập của thực tiễn vào cả hai.
b. Cơ sở tâm lý - sinh lý
Quá trình nhận
thức được phân chia thành 3 giai đoạn:giai đoạn nhận thức cảm tính, giai đoạn
nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) và giai đoạn tái sinh cái cụ thể trong tư
duy (vận dụng vào thực tiễn).
Nhận thức cảm
tính nảy sinh do kết quả tác động trực tiếp của sự vật hiện tượng lên các giác
quan của con người.
Nhận thức lý tính
là giai đoạn phản ánh trừu tượng, khái quát hóa dưới dạng những khái niệm, định
luật, học thuyết… Nhận thức cảm tính có vai trò quan trọng vì nó tạo chất liệu
cho quá trình tư duy. Không có nhận thức cảm tính thì sẽ không có nhận thức tư
duy trừu tượng.
Giai đoạn tòi
sinh cái cụ thể trong tư duy là giai đoạn kiểm tra và vận dụng tri thức mới vào
tình huống mới. Trong dạy học, để quá trình này được tổ chức thuận lợi, người
ta sử dụng rộng rãi các phương tiện trực quan. Ở giai đoạn này cần tạo điều kiện
cho học sinh thu nhận được nhiều tư liệu cảm tính làm phong phú sự trừu tượng
hóa. Sử dụng phương tiện trực quan nhằm giúp học sinh quan sát là tiếp nhận thông
tin về những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ của những cái cụ thể
trong hiện thực. Giáo viên vừa giảng vừa hướng dẫn học sinh xem xét các tranh
vẽ, mô hình…
c. Cơ sở của môn học
+ Về nghiên
cứu vật phẩm kỹ thuật:
Nội dung các môn
KT nghiên cứu gồm các kiến thức
về cấu tạo, nguyên lý hoạt động của máy móc, thiết bị. Do đó lĩnh hội tri thức
kỹ thuật phải bắt đầu từ quan sát hệ thống phẩm kỹ thuật công nghệ. Mối liên hệ
giữa cái cụ thể - trực quan với cái trừu tượng - lý thuyết cũng là mối liên hệ
giữa cấu tạo với nguyên lý hoạt động của hệ thống kỹ thuật.
+ Về diễn biến
của quá trình kỹ thuật và công nghệ:
Các quá trình
biến đổi năng lượng bao giờ cũng diễn ra trong các máy. Sự lĩnh hội về các qui
trình này chỉ có thể thực hiện khi chúng được đặt vào các máy, các cơ cấu cụ
thể. Quá trình chế biến sản phẩm kỹ thuật, thực chất là quá trình cơ, lý, hóa…
Quá trình xảy ra với nguyên liệu và năng lượng.
+ Về nhiệm vụ
phát triển tư duy kỹ thuật:
Trong quá trình
hình thành khái niệm kỹ thuật, những đặc tính cơ bản của sản phẩm kỹ thuật,
trực quan là điểm xuất phát của nhận thức, nhất là khi học sinh làm quen với
những vấn để mới của kỹ thuật. Trực quan sinh động đóng vai trò quan trọng để
tạo ra 3 yếu tố:khái niệm, hình ảnh, thao tác giúp tư duy kỹ thuật của học sinh
được phát triển. Trực quan sinh động cũng tạo nên 3 khâu:lĩnh hội - thiết kế- vận
dụng kỹ thuật. Cho nên khi hình thành kỹ năng, kỹ thuật giáo viên thường hay
biểu diễn các công việc lao động kỹ thuật để học sinh quan sát, ở đây công cụ
lao động, máy móc và hoạt động cụ thể của giáo viên đóng vai trò như một phương
tiện trực quan.
4.3.2.2 Hệ thống các phương pháp trực quan
1) Trình bày mẫu
- Bản chất của phương pháp
Giáo viên thực
hiện hành động kỹ thuật kết hợp với giải thích, nhằm giúp học sinh hình dung rõ
ràng từng động tác riêng lẻ của hành động và trình tự các động tác ấy, làm cho
học sinh có khả năng làm được hành động đó chỉ dẫn và tin vào sự đúng đắn của
nó. Học sinh quan sát, tái hiện, hình dung, phân tích….trên cơ sở đó hình thành
động hình vận động.
- Tiến trình của phương pháp gồm
các bước
+ Bước 1 :
Chuẩn bị hành động cần làm mẫu: Công việc này được giáo viên thực hiện trước
bài dạy thực hành, gồm nội dung sau :
- Phân tích
hành động cần biểu diễn để phân chia thành các yếu tố bộ phận, sắp xếp các yếu
tố đó theo trình tự hợp lý, xác định những yếu tố khó, chuyển tiếp, dự kiến
những sai sót có thể xảy ra khi học sinh luyện tập …
- Chuẩn bị các
phương tiện, dụng cụ, … cần thiết tương ứng.
- Biểu diễn
thử hành động mẫu để khẳng định việc phân tích trên và định mức thời gian thực
hiện, dự kiến những giải thích kèm theo.
- Dự kiến vị
trí và điều kiện biểu diễn sao cho học sinh quan sát thuận lợi nhất.
+ Bước 2 :
Biểu diễn hành động mẫu theo trình tự :
- Định hướng
hành động cho học sinh bằng cách nêu ra mục đích của hành động, trình tự các
động tác và phương tiện kèm theo, yêu cầu cần đạt được.
- Biễu diễn
hành động mẫu với tốc độ bình thường, trong điều kiện đúng tiêu chuẩn.
- Biễu diễn
với tốc độ chậm, chia ra thành các cử động riêng biệt và phân tích các bước
chuyển tiếp. Giúp học sinh nắm chỉnh sửa từng động tác và ghi nhớ trình tự của
chúng.
- Lặp lại
những động tác khó, những chỗ chuyển tiếp phức tạp kết hợp với giải thích bằng
lời, chỉ ra những sai sót thường gặp khi thực hiện. - Biễu diễn tóm tắt lại
toàn bộ hành động với tốc độ bình thường để học sinh có được ấn tượng về tiến
trình công việc.
+ Bước 3: đánh
giá kết quả biểu diễn để nắm mức độ hiểu bài của học sinh. Yêu cầu một em trình
bày biểu diễn, các em khác quan sát, góp ý.
Tùy kết quả
biểu diễn của học sinh mà chuyển sang luyện tập hoặc biểu diễn lại. Tiến trình
và trình tự các bước nêu trên là tương đối, nó được vận dụng linh hoạt trong
từng hành động cụ thể cần làm mẫu. Được tiến hành với sự hỗ trợ của cỏc phương
tiện trực quan khác : bản quy trình công nghệ, băng hình, đèn chiếu…
- Phạm vi ứng dụng: Trình bày mẫu
được tiến hành ở giai đoạn hướng dẫn
ban đầu và giai đoạn hướng dẫn thường xuyên của quá trình dạy thực hành.
2) Hướng dẫn học sinh quan sát
Để hình thành các khái niệm kỹ thuật, tri
thức về cấu tạo, nguyên lý, hoạt động dạy và
hoạt động học cần thao tác trên các đối tượng trực quan như: sơ đồ bảng,
tranh ảnh, mô hình..vv.phù hợp với quy luật nhận thức từ cái cụ thể hiện thực
đến cáì trừu tượng mang tính chất lý thuyết. Mặt khác trong khi truyền đạt nội dung dạy, để
hiểu, người học phải huy động giác quan
nhằm phản ánh đặc điểm cảu đối tượng. Do đó việc sử dụng phương tiện trực quan,
hướng dẫn học sinh quan sát không thể thiếu trong quá trình dạy học. Có nhiều
loại phương tiện trực quan như: sơ đồ, bảng biểu, mô hình,mô phỏng
và nguyên bản,...
- Có thể trình bày trực quan, hướng dẫn quan sát theo một trong hai
con đường diễn dịch hay quy nạp. Theo con đường quy nạp, giáo viên đưa trực
quan ra trước sau đó trình bày tri thức về chúng. Theo con đường diễn dịch,
giáo viên trình bày tri thức về đối tượng trước sau đó đưa trực quan ra để cụ
thể hóa. Tùy thuộc vào kinh nghiệm của người học, điều kiện thực tế, đặc điểm
của đối tượng nhận thức để giáo viên chọn một trong hai cách nói trên. Tuy
nhiên theo con đường quy nạp, dường như
con đường nhận thức của người học mang tính tìm tòi nhiều hơn nên khuyến khích
được tích tích cực của họ trong học tập.
Hướng dẫn học sinh quan sát cần đảm bảo
các yêu cầu sư phạm như:
Giới hạn phạm vi quan sát, tránh hiện
tượng quan sát triền miên thiếu chủ định ở người học.
Tri giác đối tượng nghiên cứu bằng nhiều
các giác quan.
Với các sự vật, quá trình trong thực tế có
thể chuyển động tốt nhất cho học sinh quan sát nó trong trạng thái đó.
Hướng dẫn học sinh quan sát phải chú ý tới
nguyên tắc 3D,đúng chỗ, đúng lúc và đủ cường độ.
Phương pháp này được sử dụng cả trong dạy
lý thuyết và thực hành kỹ thuật. Trong hướng dẫn thực hành có thể sư dụng ở cả
ba giai đoạn: hướng dẫn mở đầu, hướng dẫn thướng xuyên và hướng dẫn kết thúc.
3) Tự quan sát ở học sinh
Phương
pháp nàygiáo viên áp dụng sẽ làm cho học sinh tăng khả năng tự vận động của họ
trong quá trình nắm vững tri thức, rèn luyện để quan sát. Đối tượng quan sát: Bản vẽ mô hình, vật thật, tranh ảnh,...các hệ
thống công nghệ, dây chuyền sản xuất…vv.
Cách thức tiến hành: cung cấp cho học sinh
cách quan sát, trình tự quan sát, quan sát những bộ phận, đối tượng nào,... Hướng
dẫn họ ghi chép những điều quan sát được, đến giờ lên lớp tổ chức SEMINAR tổng
kết- kết luận.
4, Tổ chức cho học sinh tham quan
Đối tượng tham quan phần nhiều ở ngoài nhà trường
như: nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp, công trường,... Nhằm nâng cao hiểu
biết, mở rộng, củng cố tri thức đã học, giáo dục hứng thú nghề nghiệp lòng yêu
nghề cho học sinh.
Phương pháp này được áp dụng khi bắt đầu năm học, trong giai đoạn
học sản xuất hoặc kết thúc khoá học.
Cách tiến hành: Mỗi cuộc tham quan
phải có mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung, do vậy cần liên hệ trước với cơ sở đến
tham quan, định người hướng dẫn tham quan. Khi tham quan, học sinh phải viết
thu hoạch, tiến hành thảo luận, rút kinh nghiệm, đưa ra bài học cần thiết theo
chương trình đào tạo.
4.3.3. Nhóm các phương pháp thực hành
1) Phương pháp thí nghiệm
Thí nghiệm là mô hình đại diện cho đối tượng
thực tế, nó chính là các hiện tượng, quá trình, sự kiện…được tạo bởi các dụng cụ thí nghiệm, giúp cho học
sinh nghiên cứu và học tập. Qua thí nghiệm, người học phân tích đối tượng
nghiên cứu, lĩnh hội bản chất theo con đường tìm tòi, khám phá, phát hiện. Do
đó đây là phương pháp có thể khuyến khích tính tích cực tự lực của học sinh,
làm cho học gắn liền với hành. Tuỳ theo mục đích có thí nghiệm học tập, thí
nghiệm nghiên cứu. Theo mức độ đại trà có: thí nghiệm theo nhóm, thí nghiệm cá
nhân.Quy trình là thí nghiệm như sau:
- Xác định M thí nghiệm (kết quả).
-Tích luỹ kiến thức cho học sinh.
- Lập quy trình thí nghiệm.
-Tiến hành thí nghiệm,ghi biên bản thí
nghiệm (kết quả).
- Phân tích tổng hợp các số liệu thí
nghiệm, viết báo cáo thí nghiệm
-Giáo viên tổng kết buổi học.
2) Phương pháp luyện tập
Luyện tập là lặp đi lặp lại nhiều lần những hành động
nhất định nhằm hình thành, củng cố những
kỹ năng, kỹ xảo và các phẩm chất tâm lý
cho học sinh.
Luyện tập cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Đảm bảo tính tự kiểm tra trong luyện tập. Trên cơ sở
này kỹ năng được hình thành nhanh chóng,
loại bỏ được các tư thế, thao tác sai, bất hợp lý, tránh được bệnh nghề nghiệp.
Mặt khác cần nâng dần mức độ khó, độ phức tạp của công
việc luyện tập nhằm kích thích tính tích cực của học sinh trong quá trình luyện
tập, giúp cho kỹ năng được hình thành
mang tính mềm dẻo.
Luyện tập cần thường xuyên và liên tục để tránh sự suy
yếu kỹ năng và kỹ xảo. Cạnh đó còn phải đảm bảo đủ số lần và luyện tập trong
các hoàn cảnh khác nhau.
Có các dạng luyện tập:
+ Luyện tập thao tác: bao gồm luyện tập thao tác thủ công và luyện tập thao
tác trên máy: cả hai cách thức luyện tập này đều dựa trên nguyên tắc bắt chước
theo mẫu của giáo viên.Như vậy đòi hỏi giáo viên cần nêu rõ đặc điểm của thao
tác cần thực hiện, tiến hành làm mẫu, đảm bảo yêu cầu và trình tự của phương
pháp làm mẫu, cũng có thể xây dựng các phiếu hướng dẫn thực hiện thao tác giúp
học sinh tự lực thực hiện. Đối với việc luyện tập thao tác trên máy đầu tiên
cần luyện tập trên máy chết, sau đó mới luyện tập trong trạng thái máy hoạt động.
Luyện tập các nguyên công: bao gồm luyện tập các nguyên công thủ công và
nguyên công trên máy. Để thực hiện giáo viên cần mô tả đặc điểm của các nguyên
công, các dụng cụ, phương tiện kỹ thuật, tiến hành làm mẫu sau đó cho học sinh
luyện tập. Giáo viên có thể phát triển các phiếu hướng dẫn công việc, phiếu
hướng dẫn công nghệ ...nhằm hướng dẫn học sinh thực hiện các nguyên công.
Luyện tập thực hiện các quá trình lao động được thực hiện trên cơ sở các
bài tập tổng hợp, trong đó giáo viên giao nhiệm vụ, người học tự lực xây dựng
kế hoạch thực hiện, bao gồm kế hoạch nguyên vật liệu, quy trình công nghệ, kế
hoạch kiểm tra và thực hiện. Phương pháp này được thực hiện khi người học đã có
kỹ năng, kỹ xảo, tri thức chuyên môn ở trình độ nhất định, nó gắn liền với việc
chế tạo ra các sản phẩm có ích.
Luyện tập bằng máy luyện tập. Ví dụ: luyện tập lái xe trong các cabin lái,
trong đó người ta phân tích hoạt động nghề thành các tính huống, mô phỏng các
tình huống đó bằng hệ thống tín hiệu, đặt học sinh vào các tình huống đó để
huấn luyện, trên cơ sở đó hình thành được kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất tâm lý
cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp.
3) Các hệ thống luyện
tập
Hệ thống
luyện tập thực chất là kế hoạch cho việc việc tập các thao tác, nguyên công lao
động, nguyên công công nghệ giúp người học có được hệ thống các năng lực thực
hiện công việc của nghề. Trong đó hoạt động lao động coi là cái toàn thể M được phân tích thành các bước, các nguyên
công,gọi là các bộ phậnA,B,C,D... tiến hành cho học sinh luyện tập các bộ phận
đó trên cơ sơ đó nắm được cái toàn thể. Đối tượng luyện tập được gọi là các bộ phận tương
đối độc lập với nhau được phân chia từ cái toàn thể. Cái toàn thể có thể
là hoạt động lao động của một nghề nào đó, sự phân chia này chỉ mang tính tương
đối. Tùy vào cách thức luyện tập mà người ta có các hệ thống luyện tập: hệ thống luyện tập
theo trình tự giản đơn, hệ thống luyện
tập theo trình tự tăng tiến và hệ thống luyện tập theo trình tự không đầy đủ. Ví
dụ: giả sử có cái toàn thể M được chia thành các bộ phận: A, B, C,...; gọi chu
trình luyện tập là : I, II, III, IV,....
có các hệ thống hệ thống luyện tập như sau:
a, Hệ thống luyện tập
theo trình tự giản đơn
Chu
trình luyện tập
|
Trình
tự đơn giản
|
Đề mục
|
A
|
B
|
C
|
D
|
I
|
+
|
|
|
|
II
|
|
+
|
|
|
III
|
|
|
+
|
|
IV
|
|
|
|
+
|
Phối hợp
|
+
|
+
|
+
|
+
|
Đặc điểm: ở hệ thống này mỗi chu trình chỉ
luyện tập một bộ phận, cuối cùng luyện tập phối hợp các bộ phận để nắm được
tổng thể M.
Ưu: Dễ luyện tập, hình thành kỹ năng hình
thành nhanh, dễ kiểm tra đánh giá
Hạn chế: kỹ năng kỹ xảo cứng nhắc, thiếu
tính mềm dẻo linh hoạt, khó phát huy được tính tích cực của học sinh trong
luyện tập.
b, Hệ thống luyện tập theo trình tự tăng tiến
Chu trình
luyện tập
|
Trình
tự tăng tiến
|
Đề mục
|
A
|
B
|
C
|
D
|
I
|
+
|
|
|
|
II
|
+
|
+
|
|
|
III
|
+
|
+
|
+
|
|
IV
|
+
|
+
|
+
|
+
|
Phối hợp
|
+
|
+
|
+
|
+
|
Đặc điểm : các bộ phận được luyện tập phối hợp với nhau ngay từ đầu
Ưu điểm : dễ lựa chọn đối tượng công việc luyện tập; kỹ năng, kỹ xảo
hình thành có tính chất ,mềm dẻo; khích lệ được tính tích cực của học sinh.
Hạn chế : khó khăn trong kiểm tra đánh giá, thời gian và số lần luyện
tập các bộ phận không theo mức độ phức tạp, độ khó mà phụ thuộc vào vị trí của
nó trong hệ thống.
c, Hệ thống luyện tập
theo trình tự không đầy đủ
Chu
trình luyện tập
|
Trình
tự không đầy đủ
|
Đề mục
|
A
|
B
|
C
|
D
|
I
|
+
|
|
|
|
II
|
|
|
+
|
|
III
|
|
|
+
|
+
|
IV
|
+
|
|
+
|
+
|
Phối hợp
|
+
|
+
|
+
|
+
|
Đặc điểm: Tách các bộ phận khó ra luyện tập, cuối cùng phối hợp các bộ phận
để lĩnh hội toàn thể M.
Hệ thống này tránh được các hạn chế của hai hệ thống trước đó, có đầy đủ ưu
điểm của hai hệ thống theo trình tự giản đơn và hệ thống theo trình tự tăng
tiến.
4) Phương pháp ôn tập
Không thể có cái gì muốn nhớ mãi mà không
có một chi kì nhắc nhớ lại, bởi vì người ta dễ quên những cái không thường
xuyên sử dụng.
Ôn tập
là quá trình nhắc lại có kế hoạch, có hệ thống những điều đã trải qua.
Cách ôn tập: Ngời học thường
xuyên để tâm đến điều mình đã học, có kế hoạch xem lại những cái đã học, khái
quát hoá, tạo ra ký hiệu riêng để ghi nhớ lưu giữ, ghi lại trong ký ức.
4.3.4. Nhóm phương pháp dạy-
học phức hợp
4.3.4.1.Phương pháp dạy học nêu vấn đề
1. ý nghĩa của dạy học nêu đề
Do khoa học kỹ
thuật phát triển dẫn tới hai kết quả là: một là sự thâm nhập của khoa học kỹ
thuật vào quá trình làm phương tiện sản
xuất ngày càng hiện đại: Khoa học kỹ thuật như là lực lượng trực tiếp thúc
đẩy sản xuất, hai là khối lượng tri thức phát triển. Sự thay đổi của đặc điểm
công việc, nội dung và sự phân chia công việc trong sản xuất ảnh hưởng tới quá
trình đào tạo trong việc lựa chọn sử dụng các phương pháp dạy học, đòi hỏi phương
pháp dạy học có sự đổi mới.
Việc sử dụng
phương pháp dạy học cần giúp cho thế hệ
trẻ có tiềm lực để khi ra đời nhanh chóng tiếp cận với thực tiễn luôn phát
triển, làm cho học sinh không chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà phải
tự mình tích luỹ lấy kiến thức, đề cao tính tự lực của học sinh trong việc
chiếm lĩnh tri thức.
Phương pháp dạy học nêu và giải
quyết vấn đề đáp ứng được nhu cầu trên
đồng thời phát triển được năng lực
nghien cứu độc lập của học sinh. COMENXKI nói:” Sự lĩnh hội kiến thức phải
thống nhất sự phát triển năng lực của học sinh. Ông đưa ra ba yêu cầu đối với
phương pháp dạy học.
Chỉ
học những điều phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với năng lực và những cái mà học
sinh yêu thích.
Không
bắt buộc học sinh thuộc lòng khi họ chưa hiểu.
Không
bắt học sinh làm bài tập khi họ chưa được giải thích một cách thấu đáo.
Phương pháp dạy học truuyền thống
cũng cấp những tri thức có sẵn một cách áp đặt, tỉ mỉ cặn kẽ. Hoạt động hận
thức của học sinh hoàn toàn thụ động mang tính ghi nhớ tái hiện.
Khoa
học sư phạm chứng minh rằng: phương pháp dạy học quyết định cấu trúc của hoạt
động nhận thức, cấu trúc nhận thức quyết định tới sự phát triển tư duy cho học
sinh.
Dạy học nêu
vấn đề khắc phục được những nhược điểm của các phương pháp dạy học
truyền thống, phát huy tính tự giác, tích cực, tự lực và phát triển được ở học
sinh tư duy sáng tạo.
2. Cơ sở khoa học của dạy học nêu và giải quyết vấn đề
a,Cơ sở tâm lý học
Dạy học nêu vấn đề là hình thức có
hiệu quả cao trong việc nâng cao tính tích cực tư duy của học sinh đồng thời
gắn liền hai mặt kiến thức và tư duy của học sinh. Các kết quả nghiên cứu tâm
lý xác nhận quy luật tư duy trùng với quy luật quá trình tiếp thu kiến thức mới.
Do vậy quy luật tâm lý của tư duy cũng quyết định tới tiếp thu kiến thức, mặt
khác nó cũng kết luận: Tư duy chỉ nảy sinh khi có vấn đề, chỉ phát triển khi
có vấn đề. Vận dụng vào quá trình dạy học ta thấy: Tư duy của học sinh được
bắt đầu khi có vấn đề cần nhận thức và phát triển trong quá trình giải quyết
vấn đề trên. Hoạt động nhận thức của học sinh tích cực hơn. Hoàn cảnh có vấn đề
thôi thúc học sinh tích cự tìm tòi, phát
hiện, hứng thú khi giải quyết vấn đề đó. Paplop gọi là phản xạ cái gì thế.
Dạy học nêu đề đóng vai trò quan trọng trong việc huy động học sinh vào học tập, hình thành ở học sinh sự hứng
thú trong học tập - đây là nguyên nhân tạo ra trạng thái tích cực của học sinh.
Như vậy dạy học nêu và giải quyết vấn đề có hiệu quả cao,tiếp thu kiến
thức của học sinh có tính chất tìm kiếm bằng cách giải quyết vấn đề vì vậy nó
nâng cao tính tích cực của học sinh.
Sự hiểu rõ vấn đề học tập gây cho học sinh trạng thái tâm lý đặc biệt căng
thẳng, kích thích tìm tòi cách giải quyết vấn đề đó (tình huốn có vấn đề). Tìm
bằng cách tái hiện gợi mở, vận dụng các kiến thức có liên quan vào việc giải quyết
vấn đề hay mâu thuẫn của nhận thức. Nói cách khác, học sinh biến đổi tri thức
hiện có trong quá trình tư duy, vận dụng sáng tạo tìm ra chân lý mới. Đó chính
là quá trình gắn liền kiến thức với tư duy.
Mặt khác nữa dạy học nêu và giải quyết vấn đề góp
phần đáng kể vào việc phát triển ở học sinh nhân cách hoạt động sáng tạo, rèn
luyện trí thông minh cho các em.
Quá trình lĩnh hội kiến thức kỹ năng và kỹ xảo, không chỉ phụ thuộc vào tư
duy của học sinh mà còn phụ thuộc vào hứng thú nhu cầu, động cơ sẵn có của học
sinh. Điều này cho thấy rằng cùng một nội dung,cùng một phương pháp nhưng mức
độ lĩnh hội ở mỗi học sinh là khác nhau.
Quá trình giáo dục nhân cách không phụ thuộc vào
quá trình dạy học nhưng bổ xung cho quá trình daỵ học và qua quá trình dạy học
mà phát triển nhân cách cho học sinh. Nếu phương pháp dạy học thụ động thì nhân
cách người học thiếu sự năng động sáng
tạo và ngược lại. Như vậy phương pháp dạyhọc có ảnh hưởng tới sự hình thành
nhân cách của học sinh. Vì đặc điểm của dạy học nêu và giải quyết vấn đề khiến
học sinh giải quyết các vấn đề một cáh hứng khởi tự nguyện, hai yếu tố này góp
phần rèn luyện trí thông minh cho học sinh.
Tóm lại trong dạy học nêu và giải quyết vấn đề thì
quá trình lĩnh hội của học sinh về phương diện tâm lý không chỉ đơn thuần là
hoạt động trí tuệ theo nghĩa hẹp mà còn là quá trình rèn luyện, phát triển năng
lực nhận thức, trí thông minh cho học sinh
b, Cơ
sở triết học của dạy học nêu và giải quyết
vấn đề
Vấn đề trong dạy học là những mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa mục đích nhận
thức và phương tiện nhận thức hay đó là
mâu thuẫn giữa một bên là kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm cũ với một
bên là kiến thức kỹ năng kỹ xảo mới cần có để giải quyết vấn đề. Trong đó kiến
thức kỹ năng, kỹ xảo cũ không đủ để giải quyết bài toán mới. Danhilop nhấn
mạnh: Động lực của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa nhiệm vụ nhận thức mới
đặt ra trong quá trình dạy học với trình độ kiến thức kỹ năng, kỹ xảo và trình
độ phát triển của học sinh. Như vậy theo quan điểm triết học người ta đã
chuyển phương pháp logic trong hoạt động nhận thức thành phương pháp sư phạm
đê giải quyết mâu thuẫn đó.
c, Cơ sở của phương pháp nghiên cứu khoa học
Quá trình nghiên cứu khoa học trải qua ba giai đoạn sau:
a) Phát hiện vấn đề trong thực tiễn và trong
lý thuyết
b) Tìm con đường giải quyết vấn đề thông qua
các bước phân tích cụ thể vấn đề trên cơ sở kiểm tra và kiểm chứng giả thuyết
đó
c) áp dụng vấn đề đã đựoc giải vào thực tiễn. Dạy học nêu và giải quyết vấn đề
cũng có quy trình như trên nên có thể nói dạy học nêu vấn đề là quy trình
nghiên cứu khoa học trong khuôn khổ dạy học. Vì vậy sử dụng phương pháp này rèn
luyện cho học sinh khả năng nghiên cứu khoa học.
3.Bản chất của dạy học nêu và giải quyết vấn đề
Các định nghĩa:
Dạy học nêu vấn đề là hệ thống phương pháp nhằm
đặt ra trước học sinh các tình huống có vấn đề và các điều kiện nhằm giải
quyết vấn đề đó cùng với các chỉ dẫn
nhằm đưa học sinh vào con đường tự giải quyết vấn đề đặt ra.
Theo Kurshartspas: Điều cơ bản trong dạy học nêu
vấn đề là đặt học sinh vào tình huống có vấn đề, làm cho họ tự giác ý thức được
vấn đề, phát biểu được vấn đề và có khả năng tự giải quyết vấn đề.
Theo Okon: Dạy học nêu vấn đề gồm tổng thể các hành
động như tổ chức các tình huống có vấn đề, biểu đạt vấn đề, giúp học sinh
những cái cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra cách giải quyết vấn đề đó.
Lãnh đạo quá trình hệ thống hoá và củng cố các kiến thức đã tiếp thu của học sinh.
Nhìn chung các định nghĩa trênn đây đều làm nổi
bật nên những điểm chính sau:
Dạy học nêu và giải quyết vấn đề phát triển khả năng tự lực sáng tạo của học sinh trong việc nắm kiến
thức mới, qua đó làm cho học sinh làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học.
Trong dạy học nêu vấn đề việc điều khiển quá trình
tiếp thu của học sinh qua các bước:
o
Tạo
ra hệ thống tình huống có vấn đề
o
Xác định những điều kiện
o
Chỉ dẫn cụ thể cho học sinh tự lực giải quyết
vấn đề.
4.Một số khái niệm cơ bản của
dạy học nêu và giải quyết vấn đề
a.Vấn đề
Vấn đề học tập muốn chỉ ra nhiệm
vụ nhận thức mà học sinh cần đạt được, có thể là vấn đề lý thuyết hoặc thực
tiễn. Trong đó chứa đựng các mâu thuẫn nhận thức. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ
kiến thức, kỹ năng kỹ xảo của người học với yêu cầu kiến thức kỹ năng và kỹ
xảo mới. Đây chính là động lực của quá trình tư duy, thúc đẩy quá trình nhận
thức. Giải quyết được mâu thuẫn này tức học sinh tiếp thu được tri thức mới. Cần
chú ý rằng thoạt tiên mâu thuẫn đưa ra có tính chất khách quan. Nếu học sinh
tiếp nhận vấn đề đó, mâu thuẫn đó thì mâu thuẫn này là mâu thuẫn chủ quan.
b,Tình huống có vấn đề
Muốn biến mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan của học sinh thì
phải tổ chức tình huống và đưa học sinh vào trong tình huống có vấn đề. Tức
phải đưa học sinh vào trong mối quan hệ giữa cái đã có và cái phải đạt được. Tình
huống đó gọi là tình huống có vấn đề. Vậy tình huống có vấn đề là tình huống biến
mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan của học sinh. Khi đó mâu thuẫn
khách quan của nhận thức được học sinh chấp nhận như một vấn đề học tập cần
được hiểu rõ, có nhu cầu và tin rằng
mình có thể giải quyết được. Kết quả khi giải quyết được mâu thuẫn học sinh sẽ nắm được kiến thức mới.
Đặc trưng của tình huống có vấn đề là trạng thái
tâm lý độc đáo, tức giúp cho học sinh nhận thấyđược sự khó khăn của nhận thức, mong muốn vượt qua
khó khăn ấy. Đó là mâu thuẫn mà học sinh chưa đủ điều kiện để giải quyết mâu
thuẫn này. Trạng thái tâm lý độc đáo đó là nguyên nhân thúc đẩy quá trình tự
lực nhận thức của học sinh, tái hiện vận dụng kiến thức cũ, liên tưởng sáng tạo
giải quyết mâu thuẫn.
Trong tình huống có vấn đề phải chứa
đựng cái chưa biết, mới mẻ, học sinh cần được khám phá.
Tình huống có vấn đề được đặc trưng bởi tính khái quát hoá
ở mức độ nhất định. Mức độ khái quát này quyết định mức độ khó khăn của tình huống
có vấn đề.
Đặc điểm thứ ba của tình huống có vấn đề: đây
là một quá trình có bắt đầu và kết thúc, tồn tại suốt trong quá trình dạy học
nêu vấn đề, chỉ kết thúc khi quá trình dạy học kết thúc.
Tóm lại là hạt nhân của
dạy học nêu vấn đề chi phối toàn bộ quá trình học tập của học sinh.
Điều kiện
của dạy học nêu vấn đề là:
-
Phải chứa đựng cái mới hấp dẫn đối với học sinh
-
Chứa đựng mâu thuẫn nhận
thức
-
Không khó quá, không dễ quá, tức phải phù hợp với trình độ
của học sinh
5. Cách tạo ra tình huống có vấn đề
Nguyên tắc chung dựa
trên sự không phù hợp giữa kiến thức cũ của học sinh với yêu cầu đặt ra cho họ
khi giải quyết vấn đề mới. Muốn học sinh ý thức được vấn đề tức biến mâu thuẫn
khách quan thành mâu thuẫn chủ quan thì tình huống có vấn đề thường bắt đầu từ
những sự kiện bình thường mà đi tới cái bất thường, bất ngờ và logic. Có như
vậy mới tạo ra được trạng thái tâm lý độc đáo. Khi học sinh nhận ra thì cũng là lúc mà tư duy của họ bị kích
thích mạnh mẽ và rơi vào tâm trạng độc đáo thôi thúc hưng phấn muốn tìm tòi
giải quyết. Khi vấn đề được giải quyết cũng là lúc học sinh học sinh tiếp thu
được tri thức mới. Chúng ta xét một vài ví dụ sau:
Ví dụ 1
Đề mục máy biến thế: khi
truyền tải điện năng đi xa dùng dây điện, tại sao có đường dây cao thế? Tại
sao có trường hợp dùng dây dẫn thường. Đường
cao thế truyền tải điện năng đi xa?
Tại sao muốn truyền tải
điện năng đi xa phải dùng dây cao thế?
Ví dụ 2
Đề mục máy không đồng bộ ba
pha
Xuất phát từ thí nghiệm. Thày mô tả thí nghiệm: Đặt một khung dây trong từ trường của nam châm
vĩnh cửu. Khi cho dòng điện chạy qua khung dây, học sinh quan sát thấy khung
dây quay. Câu hỏi ở đây là vì sao khung dây lại quay trong từ trường của nam
châm khi có dòng điện chạy qua. Có hai ý: Tại sao khung dây quay? và tại sao
quay theo từ trường của nam châm.
Từ những ví dụ trên ta
thấy: tình huống có vấn đề thường xuất phát từ những câu hỏi nêu vấn đề. Đó là
nhũng câu hỏi kích thích sự suy nghĩ tìm tòi của học sinh. Học sinh phải có sự
thông minh, khả năng vận dụng các thao tác tư duy khác thì mới trả lời được.
Đòi hỏi học sinh không chỉ tư duy tái hiện mà còn biết vận dụng sáng tạo những
gì đã có vào hoàn cảnh mới. Do đó khi xây dựng các câu hỏi nên vấn đề cần đảm
bảo các điều kiện sau:
Phải phản ánh mối liên
hệ bên trong giữa điều kiện đã biết và chưa biết. Trong câu hỏi phải chứa đựng
phương hướng để giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm kiếm câu trả lời, phải
phản ánh được tâm trạng ngạc nhiên của học sinh.
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề đượcư
thực hiện ở 3 mức độ sau:
Mức độ
I
Mức độ II Mức
độ III
Thuyết trình oristic
|
Mức độ này, người dạy thực hiện cả quá trình
của phương pháp
|
|
Đàm thoại oristic
|
|
|
Hướng dẫn nghiên cứu
|
|
Đặt vấn đề
Định hướng mục đích bài học.
Nêu vấn đề 1 .
- Gây tình huống có vấn đề cho người học.
- Làm cho người học chấp nhận giải quyết.
|
|
Đặt vấn đề
Định hướng mục đích bài học,
Nêu vấn đề 1.
- Gây tình huống có vấn đề
cho người học.
Làm cho người học chấp nhận giải quyết.
|
Thày thực hiện
|
|
Đặt vấn đề
- Xác định mục đích nghiên cứu (bộ phận hay toàn bộ vấn đề)
-
Gây tình huống có vấn đề.
-
Khích lệ người học chấp nhận giải quyết vấn đề.
|
Thầy thực hiện
|
Giải quyết vấn đề 1
|
|
Giải quyết vấn đề 1
|
Trò TH
|
|
Giải quyết vấn đề
|
Trò tự lực, thầy HD, CĐ
|
Nêu vấn đề 2
- Gây tình huống có vấn
đề cho người học.
- Làm cho người học chấp nhận giải quyết.
|
|
Nêu vấn đề 2
- Gây tình huống có vấn
đề cho người học.
- Làm cho người học chấp nhận giải quyết.
|
Thày thực hiện
|
|
Kết luận, công nhận, kết quả
|
Thày và trò cùng thực hiện
|
Giải quyết vấn đề 2
|
|
Giải quyết vấn đề 2
|
Trò TH
|
|
...............................
...............................
Tổng kết/kết luận bài học
|
|
...............................
...............................
Tổng kết/kết luận bài học
|
Thày + trò thực hiện
|
|
Dạy học nêu và giải quyết vấn đề cho hiệu quả cao
trong quá trình dạy học nhưng cần lứu ý không phải bất cứ nội dung nào cũng có
thể áp dụng mà chỉ ở những nội dung có thể kích thích học sinh tìm kiếm, tìm
tòi con đường giải quyết vấn đề. Nội
dung có chứa đựngvấn đề. Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề đòi hỏi
học sinh phải có trình độ tư duy nhất định, giáo viên phải có năng lực sư
phạm nhất định và soạn giáo án công
phu. Không phải thày nào, trò nào cũng
có thể sử dụng phương pháp này. Dạy học nêu và giải quyết vấn đề cũng đòi hỏi
phải có trang thiết bị nhất định.
4.3.4.2.Phương
pháp dạy học Algorith hoá
Dạy học
Algorith là dạy học theo quan điểm điều khiển điều khiển được quá trình
tư duy của học sinh. Trong thực tiễn lao động sản xuất mỗi người đề có thể
gặp phải những bài toán thự tiễn đòi hỏi họ phải giải quyết các bài toán tối ưu,
nhanh chóng. Khi khoa học và kỹ thuật phát triển thì những bài toán đó càng
ngày càng nhiều đòi hỏi con người phải có khả năng giải quyết. Cần phải chuẩn
bị cho thế hệ trẻ ngay từ khi họ còn trong nhà trường phương pháp tư duy tổng
hợp giải quyết trọn vẹn vấn đề một cách độc lập, sáng tạo.Thông qua dạy học
Algorith hoá, học sinh biết thực hiện các thao tác tư duy đúng đắn.
1,Bản chất
của dạy học Algorith hoá
a, Định nghĩa về Algorith
Là
một bản quy định chính xác các thao tác nguyên tố phải thực hiện theo một trình
tự nhất để giải quyết một bài toán, một nhiệm vụ bất kỳ thuộc loại nào đó.
Ví dụ: Trong chương trình
Vẽ kỹ thuật nhiều khi phải tìm hình chiếu đoạn thẳng trên hệ trục toạ độ;
Algorith của nhiệm vụ này gồm các thao tác nguyên tố sau:
-
Biểu diễn hệ
trục tọa độ theo một tỷ lệ nhất định
-
Xác định điểm
đầu, điểm cuối của véc tơ trên hệ trục
- Chiếu điểm đầu và cuối của véc tơ lên hệ trục, xác
định độ dài hình chiếu trên hệ trục
-
Xác định góc a nhỏ nhất giữa véc tơ
của đoạn thẳng và chiều dương của hệ trục
-
Ghi hình chiếu của véc tơ trên hệ trục
b, Algorith có những đặc trưng sau
Tính xác
định, những chỉ dẫn trong bảng quy định thao tác nguyên tố cần chính xác rõ
ràng và đơn trị. Tức bât cứ ai nếu theo bảng Algorith đó hành động đều thu
được một kết quả giống hệt.
Tính
đồng loạt: bảng Algorith chỉ ra các thao tác cho một nhiệm vụ cụ thể, các
Algorith này được sử dụng cho các bài toán cùng loại.
Tính kết
quả. Nếu thực hiện đủ thao tác trong bảng Algorith thì luôn đạt được kết quả.
Để vận dụng Algorith trong dạy
học, nội dung dạy học cần biến đổi thành các Algorith. Học sinh thực hiện các
Algorith đó sẽ nắm được kiến thức. Trong
dạy học kỹ thuật có hai kiểu Algorith thờng được sử dụng là Algorith nhận biết
và Algorith biến đổi.
Algorith nhận biết là hệ thống
các thao tác dẫn đến nhận biết được đối tượng, phán đoán đối tượng thuộc dạng
nào.
Algorith biến đổi nhằm biến đổi
đối tượng như: Algorith chế tạo chi tiết, tháo lắp sửa chữa..vv..
Các Algorith trên có quan hệ và
gắn bó với nhau một cách hữu cơ. Quá trình nhận biết là cơ của sự biến đổi. Hai
Algorith này hoà nhập trong một bài dạy học bằng Algorith.
Chúng ta có thể xét ví dụ sau:
Để sửa chữa một máy thu thanh
Algorith của sửa chữa như sau:
1. Đo xem có điện vào máy không?
Không thì sủa chữa phần nguồn
2.
Nếu có, đo điện áp ở loa và biến áp ra loa xem còn tốt không?
Nếu không thì sửa loa, có thì sửa biến áp.
3.
Cho tín hiệu âm tần vào tầng khoếch đại âm tần, xem xét
có tín hiệu ra loa không? Nếu không thì sửa âm tần. Có thì buớc sang bước 4.
4. Cho
tín hiệu vào tiền khoếch đại, xem có tín hiệu ra loa không? Nếu không thì sửa
tiền khoếch đại. Nếu có sang bước
5.
5.
Cho tín hiệu
vào tầng trung tần xem có tín hiệu ra loa không? Nếu không thì sửa trung
tần. Có thì sang bước 6....vv.
4.3.4.3 Dạy học chương trình
hoá
1. Đặc điểm
dạy học chương
trình hoá giúp giáo viên điều khiển quá trình nhận thức của hoc sinh cụ thể ở
những điểm sau
-
Coi người học là trung tâm của quá trình dạy học
-
Trong dạy học chương trình hoá thể hiện được tính cá biệt hoá cao độ trong giảng dạy
-
Đảm bảo được kết quả học tập đối với từng học sinh
-
Trong dạy học chương trình hóa có sử dụng các phương
tiện hiện đại như máy dạy học.
-
Phương tiện điều khiển của dạy học chương trình hoá là
nội dung chương trình môn học.
2. Định nghĩa và bản chất của
dạy học chương trình hoá
a). Định nghĩa:
Dạy học chương
trình hoá là sự dạy học được thực hiện dưới
sự chỉ đạo sư phạm của một chương trình dạy. Trong sự dạy học này chức năng
của hệ được khách quan hoá. Hoạt động của thày, của trò được chương trình hoá,
tức được soạn thành các Algorith dạy học để nhằm xác định chặt chẽ HĐ..
Theo ILina: dạy học chương trình hoá là một quá
trình trong đó hoạt động nhận thức của người học được điều khiển gián tiếp
bằng một chương trình dạy.
Chương trình gồm hai phần, một
là chương trình dạy, hai là chương trình học. Trong đó chương trình dạy là
chương trình hoá nội dung dạy, qua đó tối ưu hoá việc dạy. Đây chính là bản
chất của dạy học chương trình hoá. Vai
trò và chức năng của thày qua đó mà được khách quan hoá tới mức nếu các thày
khác nhau thực hiện chương trình dạy trên thì đều cho kết quả như nhau.
Chương trình dạy :Để chương
trình hoá nội dung học tập có thể theo trình tự sau:
-
Đầu tiên xác định mục đích học tập, tức xác định trạng
thái cuối cùng điều khiển hệ tới đó.
-
Trên cơ sở mục đích đã xác định ở trên xác định khối lượng
nội dung lí thuyết, thực hành cần dạy để đảm bảo cho học sinh nắm được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.
-
Xây dựng được sơ
đồ logíc
của kế hoạch đào tạo, hay phải
chia khối lượng nội dung thành các lượng thông tin kiến thức nhỏ và
sắp xếp chúng theo một trình tự logic chặt chẽ. Việc này chính là việc Algorith
hoá nội dung dạy.
Chương trình học
-
Tức chương trình hoá hoạt động học tập của học sinh
căn cứ vào chương trình dạy. Chú ý phải khách quan cao độ hoạt động học tập
của học sinh.
Chương trình dạy học theo ngôn từ điều khiển gọi là chương
trình tác động đa hoạt độngdạy học từ điểm xuất phát đến điểm kết thúc.
B, cấu trúc
Xét về cấu trúc, chương trình dạy (chương trình tác động)
gồm ba khâu sau:
-
Truyền đạt thông tin tới người học
-
Người học sử lý thông tin đó
-
Kiểm tra mức độ lĩnh hội các tri thức đó
4.3.4.4. Phương pháp bốn
giai đoạn
Phương pháp bốn giai đoạn có một vị trí quan trọng
trong những hoạt động hướng vào rèn
luyện những kỹ năng nghề nghiệp. Phương pháp này được thực hiện chủ yếu dựa
trên nguyên tắc: giáo viên làm mẫu, học sinh bắt chước làm theo. Nếu người
học chỉ quan sát những thao động tác qua biểu hiện bên ngoài của giáo viên thì chưa đủ, mà còn phải quan sát cả những
hiện tượng xảy ra bên trong của những công việc do giáo viên làm mẫu nữa, tức
là quan sát cả nội dung và hình thức biểu hiện của các thao tác lao động do
giáo viên thực hiện. Khi những thao động tác không còn diễn ra trước mắt học
sinh nữa, người học phải có một biểu tượng hoàn chỉnh về các thao động tác mà
thày đã làm một cách đậm nét và phải
hiểu thấu đáo về ý nghĩa của từng cử động hợp thành một thao động tác hoàn
chỉnh. Có như thế họ mới chủ động và tự lực trong quá trình bắt chước, làm
theo. Muốn làm được điều này, giáo viên phải làm mẫu (thị phạm): một mặt, vừa
làm, vừa có lời giải thích kèm theo để gây sự chú ý và hướng tới những cử động
cơ bản của hành động. Mặt khác, phải tổ chức các hoạt động tư duy cho người
học để họ vừa nhận biết, vừa nắm vững những gì mà cần bắt chước, làm theo một
cách chủ động. Người học không chỉ nắm bắt các hành động thực hành, mà còn phải tư duy trong hành động thực hành
đó.
Tại phương pháp này, phương thức tư
duy cơ bản là hướng vào các hành động có liên quan đến quá trình luyện tập
xuất phát từ những hành động vật chất và các thao tác trí tuệ.
Trong khi làm mẫu giáo viên có thể
chọn những công việc điển hình, phức tạp để thực hiện, song toàn bộ những công
việc, những thao tác làm mẫu riêng rẽ ấy cuối cùng phải tổng hợp thành một quá
trình lao động tổng thể.
Những hoạt động nào không cần đòi
hỏi người học phải luyện tập nhiều lần trong quá trình luyện tập thì có thể để
đến khi luyện tập tổng thể lần cuối cùng kết hợp cho luyện tập toàn bộ vào giai
đoạn này. Ví dụ: những thao động tác đơn giản, dễ thực hiện thì không cần phải
nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Sau khi đã làm mẫu xong, giáo viên
có thể yêu cầu người học mô tả lại bằng miệng
và làm thử những thao động tác lao động họ vừa quan sát được. Đó là việc
làm cần thiết để người học tư duy và hình thành biểu tượng chắc chắn ở trong
đầu về những công việc mà họ sắp luyện tập ở giai đoạn sau.
Phương pháp bốn giai đoạn có cấu
trúc như sau:
1) Giai đoạn chuẩn bị ( giai đoạn bắt đầu)
của người học,
2) Giai đoạn làm mẫu (thị phạm) và giải thích
của giáo viên,
3) Giai đoạn làm thử và giải thích của học
sinh,
4) Giai đoạn tự luyện tập của học sinh.
Trước khi vận dụng phương pháp bốn
giai đoạn giáo viên phải chuẩn bị những công việc sau đây:
-
Giải
thích rõ những điều kiện học tập (phân tích điều kiện),
-
Xác
định mục đích học tập (lựa chọn nội dung học tập),
-
Sắp
xếp công việc ( dưới hình thức viết), phân chia công việc và xác định những
trọng điểm,
-
Xác
định hay dự kiến thời gian thực hiện,
-
Chuẩn
bị những công việc cho học sinh luyện tập (nguyên, nhiên vật liệu...).
¨ Về
giai đoạn chuẩn bị:
Người học được làm quen với những hành động lao động mới. Bởi
vậy ý nghĩa của nó phải được giải thích rõ. Trong giai đoạn này giáo
viên cần:
-
Tạo ra mối quan hệ giao tiếp với học sinh,
-
Mô tả nhiệm vụ cần được thực hiện ở học sinh,
-
Tạo ra sự hứng thú học tập,
-
Nắm vững những vướng mắc, trở ngại ở phía người học,
-
Đông viên, khích lệ họ, đồng thời tạo điều kiện cho họ
chuẩn bị để thực hiện nhiệm vụ luyện tập.
¨ Về
giai đoạn làm mẫu và giải thích của giáo viên:
Giáo viên làm mẫu từng bước công
việc của quá trình lao động/ luyện tập và yêu cầu học sinh quan sát tường tận.
Khi làm mẫu cần chú ý:
-
Để ý tới quá
trình hành động, cấu trúc của từng hành động cơ bắp và các thao tác trí tuệ,
-
Để cho người học quan sát kỹ lưỡng cả quá trình làm
mẫu,
-
Không nên làm mẫu hỗn hợp các thao tác lao động cùng
một lúc, mà phải làm từng động tác lao động riêng rẽ,
-
Một thao tác lao động có thể được làm mẫu nhiều lần,
-
Làm mẫu, khi thực hiện phải làm chậm và nhấn mạnh các
thao tác cơ bản,
-
và cũng không nên làm nhiều lần có kèm theo lời giải
thích khi mà học sinh đã nắm vững những điều cần luyện tập,
-
Giải thích phải đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu hướng người
học vào những cái cơ bản, không giải thích quá dài làm rờm rà, như thế các thao động tác mẫu sẽ bị lu mờ
bởi những sự giải thích quá dài dòng không cần thiết. Điều chủ yếu là giải
thích chỉ dừng lại ở mức phổ biến cách làm.
-
Tách những hành động đa dạng, phức tạp thành những thao
động tác thành phần để thực hiện. Song cuối cùng phải làm mẫu lại cả quá trình.
¨
Về giai đoạn làm thử và kèm theo lời giải
thích của học sinh
Giai đoạn này
giáo viên yêu cầu người học làm thử, nghĩa là họ phải tự lực thực hiện những
công việc mà giáo viên vừa mới làm mẫu xong. Lúc này, giáo viên đóng vai trò tư
vấn, giúp đỡ và uốn nắn những sai lầm ở họ. Nhng đòi hỏi người dạy không được
làm gián đoạn những công việc người học đang thực hiện mà ngược lại giúp đỡ
họ củng cố lại những biểu tượng về những thao động tác thày đã làm mẫu. Trong
khi làm thử họ biết đối chiếu những cái đã được làm mẫu với những thao động tác
của mình đang thực hiện để đạt kết quả.
Nói
tóm lại, trong giai đoạn này giáo viên cần:
-
Tạo
ra cho người học cơ hội thuận lợi để họ
thâm nhập vào nhiệm vụ học tập,
-
Chỉ
ra những sai lầm, những lỗi sảy ra ở họ và chỉ can thiệp khi thật cần thiết,
-
Thường
xuyên giải thích để tạo cho ngời học hiểu nguyên nhân tại sao lại phải làm như
vậy (làm theo hành động mẫu ),
-
Đưa
ra những lời công nhận, nếu người học đã hoàn thành tốt những phần việc hay
toàn bộ công việc,
-
Những
thao động tác khó hãy để cho họ lập đi lập lại nhiều lần (nếu cảm thấy cần
thiết),
-
Khích
thích người học luôn luôn suy nghĩ về những hành động của mình để sau khi làm
thử xong họ có thể tự mình mô tả lại quá trình làm thử này.
¨ Về giai đoạn tự luyện tập của học sinh
ở giai
đoạn này chủ ý về hoàn thiện và củng cố những cái đã học. Những công việc ở giai
đoạn làm thử tiếp tục được thực hiện với chu trình lập đi lập lại nhiều lần một
cách tự lực.
Trong
giai đoạn này giáo viên có nhiệm vụ:
-
Để
cho người học tự luyện tập và không có sự chỉ dẫn gì thêm,
-
Kiểm
tra và có thể đưa ra các biện pháp cần thiết để học sinh thực hiện hoặc để hạn
chế những thao động tác thừa và sai lầm,
-
Khuyến
khích và tạo điều kiện cho người học hình thành năng lực tự kiểm tra.
Đối với loại hành động tương đối đơn giản
thì quá trình làm mẫu không cần phải thực hiện mà chỉ cần phân tích các hành
động thành phần hợp thành một hoạt động để người học hình dung ra những thao
động tác lao động cần thiết phải thực hiện trong một hành động nhất định. Ví
dụ, phân tích để tìm ra các thao đông tác cơ bản, then chốt; tìm ra các ưu nhược
điểm của các bước tiến hành trong một hành động thành phần. Trong đó yêu cầu
người học mô tả bằng miệng về quá trình công việc sẽ được diễn ra trong luyện tập. Như vậy, họ không
những có những biểu tượng về thao động tác cần luyện tập mà còn phát triển
những kỹ năng trí tuệ để điều khiển hành động cơ bắp trong quá trình hình thành
kỹ năng nghề nghiệp.
Tóm lại, phương pháp bốn giai đoạn
chỉ có thể được vận dụng có hiệu quả:
-
Nếu người học xây dựng được động cơ học tập (ở
giai đoạn một),
-
Người
học phải thấy trước được những khó khăn trong quá tình luyện tập khi họ đang
tri giác thao động tác mẫu của giáo viên
(ở giai đoạn hai), và
họ phải
giải quyết một cách tích cực những nhiệm vụ luyện tập (ở giai đoạn ba),
-
Quá trình
luyện tập chỉ có thể được kết thúc (ở giai đoạn bốn) nếu người học có khả năng
tự giải quyết được nhiệm vụ học tập có hiệu quả hoặc chuyển từ khả năng từ bắt
chước, làm theo, tiến lên tự làm lấy và biết di chuyển, biến hoá từ tình huống
tương tự sang tình huống hoàn toàn mới. Nghĩa là họ có khả năng sáng
tạo.
Về nguyên tắc, quá trình luyện tập mang tính sáng tạo được thể hiện ở
phương thức sau:
Người học khi đã nhận ra được nhiệm vụ hoặc tình huống dưới dạng vấn
đề và chấp nhận giải quyết những thông tin ban đầu do giáo viên đưa ra. Căn cứ
vào đó người học tự tổ chức lại những nhiệm vụ hoặc tình huống dưới hình thức
mới dựa trên sự hiểu biết và kinh nghiệm của họ. Việc biến đổi nhiệm vụ học tập
hoặc tình huống như thế, người học sẽ tự tìm ra phương hướng giải quyết.
Trong giai đoạn này, đối tượng luyện tập được thay đổi về chức năng và mối
quan hệ của nó (phôi liệu biến đổi thành sản phẩm). Quá trình này được gọi là
sự tự lực và sáng tạo của người học. Như vậy, vấn đề đã được giải quyết.
ở đây, người học biết tự xác lập vấn đề từ những thông tin giáo viên đưa
ra là rất quan trọng. Họ biết so sánh, đối chiếu vấn đề mới đặt ra cho mình với
nhiệm vụ học tập được đặt ra cho họ. Trong quá trình này họ phải cân nhắc, suy
nghĩ cách giải quyết vấn đề. Có như thế người học mới tìm ra phương sách giải
quyết độc đáo của mình, không đi theo một lối mòn.
Việc sử dụng những phương thức giải quyết vấn đề,người dạy có thể đánh
giá được, nếu như học sinh biết giải quyết độc lập những vấn đề có ý nghĩa.
Quan trọng hơn nữa là, họ phải biết tự phân tích, lý giải và tự giải quyết được
nhiệm vụ học tập của mình.
4.3.4.5. Phương pháp dạy học dùng phiếu hướng dẫn
Phương pháp dạy học dùng phiếu hướng
dẫn là một hình thức phương pháp dùng để tổ chức quá trình dạy học. Nội dung
của phiếu hướng dẫn chứa đựng những thông tin và chỉ dẫn của giáo viên cho học
sinh. Phiếu hướng dẫn được biểu hiện dưới hình thức viết bằng văn bản. Trong
đó giáo viên có thể thảo ra những câu hỏi, những lời chỉ dẫn, lời giải thích
hoặc là kế hoạch cho việc thực hiện các nhiệm vụ học tập, các danh mục cho việc
sử dụng máy móc, thiết bị, các câu hỏi kiểm tra... để người học dựa vào đó
thực hiện các nhiệm vụ học tập được giao.
ở hình thức phương pháp này:
-
Thứ nhất, nhằm đáp ứng những điều kiện riêng có được ở
mỗi người học và tuỳ từng thế mạnh của mỗi người học để thực hiện nhiệm vụ
học tập được giao.
-
Thứ hai, nhằm đáp những thay đổi, những yêu cầu của từng cá nhân hoặc nhóm học
tập có đặc điểm không giống nhau để có thể tuỳ tình hình, thực trạng của các
nhóm hay cá nhân, căn cứ vào đó hoạch định tính chất và nội dung trong phiếu hướng
dẫn, song vẫn phải đảm bảo mục tiêu học tập ngang bằng trong các nhóm hoặc từng
cá nhân người học.
Về tính chất của phương pháp dạy học dùng phiếu hướng dẫn, phải nói
rằng đây là sự điều khiển người học từ xa. Bởi vậy, bằng và với phiếu hướng
dẫn, người học tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập được giao qua phiếu.
Nghĩa là họ phải tự tổ chức và tự thực hiện.
Phiếu hướng dẫn được hiểu là một
phương pháp dạy học tích hợp. Trong đó quá trình học tập được phân chia thành các giai đoạn. Trong từng giai
đoạn người học có thể nhận được sự giúp
đỡ của giáo viên và sau khi từng người học làm việc theo phiếu hướng dẫn giáo
viên có thể tổ chức cho họ thảo luận nhóm.
Dựa trên quan điểm tiếp cận về phương diện tâm lý học hoạt động thì mô
hình cơ bản của phương pháp dạy học dùng phiếu hướng dẫn rất thích hợp với
loại hình cấu trúc của một hành động khép kín (hoàn chỉnh).
Sơ đồ trong hình 30 mô tả quá trình của một “hành động khép kín” trong
một vòng tròn, phía ngoài vòng tròn phản
ánh những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong từng cung đoạn thuộc một “ hành
động khép kín” trong vòng tròn. Trong đó người học phải tự xác định và phân
tích quá trình học tập thành các hành động thành phần. Có thể nói, đây là một
phương pháp cá thể hoá người học rất có ý nghĩa trong quá trình học tập mang
tính tự giác và tích cực. Nó được cấu
trúc bởi sáu hoạt động trong những tình huống công việc hoặc những “hành động
khép kín- hành động hoàn chỉnh”. Hình 30
cho thấy một sơ đồ cơ bản của Phương pháp sử dụng phiếu hướng dẫn học tập
(theo sự phác hoạ của Giáo sư Tiến sĩ Hanno Hoesch 1986).
“Hành
động khép kín” này được phân chia thành các giai đoạn như sau:
-
Người học nhận được những thông tin (nhiệm vụ) về công việc phải thực hiện,
-
Lập kế hoạch cho việc thực hiện công việc và các giải
pháp tiến hành,
-
Tự quyết định lấy một giải pháp tối ưu để thực hiện,
-
Thực hiện các bước công việc theo kế hoạc đã vạch ra,
-
Kiểm tra kết quả và
-
đánh giá kết quả dựa trên những tiêu chuẩn phù hợp.
Sự phân chia như trên của quá trình lao động hay hành động khép kín trở
thành kiểu mẫu của phương pháp dạy học bằng phiếu hướng dẫn công việc. Nó
giống như hoạt động của người công nhân chuyên nghiệp mà người học cần phải
học tập. Trong phạm vi của quá trình đào tạo nghề, người học cũng phải hành
động với một ý thức trách nhiệm cao và bằng sự hiểu biết của mình để thực hiện
các “hành động khép kín” để hình thành kỹ năng nghề nghiệp.
¨ Giai đoạn 1: Giai đoạn thông tin
Dựa trên cơ sở những hiểu biết đã tích luỹ được
của mình, người học cần hiểu rõ về sản phẩm cần được gia công ( hoặc nhiệm vụ
cần được giải quyết) và cũng cần phải có am hiểu về những điều kiện làm việc ( ví
dụ như thiết bị, máy móc, dụng cụ...) qua những lời gợi ý do giáo viên đặt ra.
¨ Giai đoạn 2: Giai đoạn lập kế hoạch
Tại giai đoạn này người học phải chuẩn bị hành
động, suy nghĩ tính toán và dự kiến về các công việc làm thử và về quá trình
lao động. Sau đó họ phải lập được kế hoạch về các bước công việc, đồng thời
phải dự kiến về việc sử dụng các phương
tiện trợ giúp để gia công sản phẩm. Mục đích của nó là thiết lập một kế hoạch
quá trình lao động. Các câu hỏi đặt ra mang tính dẫn hướng ở giai đoạn này (
từ giáo viên) nhằm giúp đỡ người học để
họ hình dung ra những biểu tượng của hành động.
¨ Giai đoạn 3: Giai đoạn quyết định hành
động
Bản kế hoạch cá nhân đã được lập ra ở giai đoạn
hai được người học cân nhắc kỹ lưỡng về khả năng thực hiện và cả tính hiệu
quả của nó, đồng thời qua đó có thể hiệu chỉnh để bản kế hoạch sát với tình
hình thực tế qua sự trao đổi bàn bạc với các bạn cùng nhóm, sau đó đi tới bước lựa chọn các
phương tiện lao động cần thiết cho việc thực hiện các công việc. Cuối cùng (của
giai đạon này) người học hỏi - đáp với giáo viên và xin ý kiến trước khi
quyết định thực hiện.
¨ Giai đoạn 4: Giai đoạn thực hiện
Quá trình lao động theo kế hoạch đã vạch ra được
người học thực hiện và làm ra sản phẩm.
¨ Giai đoạn 5: Giai đoạn kiểm tra
Kết quả công việc được đem đối chiếu với với những yêu cầu đã đặt ra.
Những yêu cầu này đã được xác định ở phiếu hướng dẫn công việc.
¨ Giai đoạn 6: Giai đoạn đánh giá
Giai đoạn này người học phải tự phân tích kết quả
công việc từ giai đoạn 1 đến giai đoạn thứ 5 và có thể tranh thủ hỏi - đáp về
lĩnh vực chuyên môn với giáo viên. Qua đó người học tự đánh giá sản phẩm của
mình theo những tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá để tự khẳng định hành động của
mình. Trên cơ sở này, người học có thể đề xuất những sáng kiến và cải tiến quá
trình lao động và chất lượng sản phẩm của mình.
Tại một bài học dùng phương pháp sử dụng phiếu hướng
dẫn có thể kết hợp nhiều hình thức phương pháp khác nhau như hình thức phương
pháp cộng tác, mẫu hành động và phương tiện dạy học. Ví dụ: như ở giai
đoạn 3 và 6 đều phải kết hợp hình thức
đàm thoại. Và nói chung tất cả các bước đều có thể áp dụng hình thức cộng tác
giữa giáo viên với từng cá nhân hoặc nhóm người học hoặc cả tập thể lớp.
Hình thức
phương pháp dùng phiếu hướng dẫn thường gặp trong thực tế cho thấy không có
những cấu trúc đồng nhất. Tất cả những biểu hiện của phương pháp dùng phiếu hướng
dẫn trong mỗi trường hợp cụ thể đều
khác nhau. Bởi nó phụ thuộc vào những mục tiêu học tập và mức độ đòi hỏi của nó
và vào những điều kiện thực hiện của phương pháp cũng rất khác nhau (điều kiện
dạy và học).
Song về
cơ bản sự quyết định có sử dụng phương pháp này hay phương pháp khác, vấn đề
vẫn còn tuỳ thuộc vào năng lực sư phạm của người dạy. Mặt khác còn phụ thuộc
vào mối quan hệ giao tiếp giữa người dạy và người học. Chẳng hạn như người
dạy quyết định sử dụng phương pháp độc thoại, thì sẽ chỉ giải thích, làm mẫu
hoặc thực nghiệm, hay không dùng phương pháp trên thì có thể dùng đàm thoại
hoặc dùng phương pháp tái hiện vấn đề và tái mở rộng vấn đề ?
Phương pháp
dạy học
dùng
(4)
-
Gia công sảm phẩm
-
Hoàn thành nhiệm vụ được giao
|
|
(5)
- Tất cả các nhiệm vụ được giao đã hoàn thành ?
- Tự kiểm tra
|
|
phiếu hướng dẫn
|
|
(3)
Xác định phương pháp gia công và phương tiện hoạt
động.
Đối thoại với người dạy!
|
|
Hình 30: Sơ đồ phương pháp sử dụng phiếu hướng
dẫn
Điều
này nói lên rằng, dựa vào nội dung học tập, vào điều kiện khách quan và chủ
quan ở phía người học, chẳng hạn như tính tích cực và tự giác ở họ, dựa vào
sự tiến bộ trong quá trình học tập của họ để quyết định dùng phương pháp hướng
dẫn hay không. Trong đó đặc biệt chú ý, liệu người học có khả năng tự điều
khiển được mình trong quá trình học tập
hay không? Và mức độ cá nhân hoá quá trình học tập như thế nào ? Từ đó người
dạy có thể cân nhắc kỹ lưỡng và đi đến quyết định sử dụng phương pháp dùng
phiếu hướng đạt kết quả cao. Khi sử dụng phương pháp này nên tạo ra cho người
học một không gian hoạt động tương đối rộng để họ dễ hoạt động, tránh dùng
phiếu hướng dẫn quá chi tiết sẽ không tạo ra được lợi thế trong hoạt động của
người học và như thế nhiều khi làm mất tính năng động sáng tạo ở họ.
4.3.4.6. Phương pháp dạy học bằng tình huống
Mục đích của đào tạo và nâng
cao trình độ về nghề nghiệp là tạo ra khả năng cho người học biết thay đổi
tình thế trong mọi trường hợp của đời sống nghề nghiệp của họ. Bởi lẽ trong tương
lai hệ thống hành chính và hệ thống sản xuất luôn biến đổi thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã
hội. Do vậy hoạt động của người lao động cũng phải năng động, đó là điều hết
sức cần thiết. Nó đòi hỏi quá trình đào tạo và nâng cao trình độ về nghề nghiệp
phải theo chiều hướng đó. Muốn dạy cho người học biết thích ứng và xử lý các
sự kiện diễn ra trong quá trình lao động
sản xuất, thường giáo viên phải áp dụng phương pháp dạy học theo tình huống,
bằng cách tạo ra những sự cố cho người học (có thể là cá nhân hay tập thể)
trong hoạt động thực tiễn nghề nghiệp. Tình huống được hiểu là toàn bộ sự kiện xảy
ra trong một thời gian và không gian nhất định trong thực tiễn nghề nghiệp và
đời sống thường ngày, đòi hỏi họ phải thích ứng, chấp nhận hay có khả năng đề
xuất những giải pháp để giải quyết những tình huống đó.
Thông thường, phương pháp
dạy học theo tình huống thường được sử dụng để :
-
Từ một tình huống riêng biệt đặc thù để đi đến một sự
nhận thức chung, khái quát. Để đạt được điều đó, giáo viên phải tự tạo ra những tình
huống phù hợp (thu thập một hệ thống các tình huống).
-
Thử nghiệm các kiến thức lý thuyết vào các tình huống
trong dạy thực hành,
-
Khuyến khích người học để họ có khả năng đề ra được
các giải pháp giải quyết vấn đề.
Để vận dụng phương pháp dạy học theo tình huống đạt hiệu quả cao, đòi
hỏi phải tìm ra được những tình huống có liên quan đến thực tiễn, song trong
thực tế nghề nghiệp các tình huống xảy ra lại rất đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ.
Cho nên phải lựa chọn những tình huống nào để cho người học nhận ra và giải
quyết cho phù hợp với chương trình và mục tiêu học tập lại là vấn đề của người
giáo viên. Để làm được điều này, giáo viên phải tìm kiếm trong các tài liệu học
tập, các văn bản và trong hoạt động thực tiễn dạy và học...Cấu trúc của một
tình huống thường có liên quan đến trạng thái căng thẳng, gay cấn giữa vấn đề:
thu thập tình huống, tính vừa sức, tầm quan trọng, định hướng khoa học với
hành động thực dụng.
Nguyên tắc dạy học khi vận dụng phương pháp dạy học theo tình huống là:
-
Học tập phải gắn với thực tiễn, nghĩa là học ở những ví dụ thực tiễn,
-
Học cách giải quyết vấn đề, nghĩa là học ở những ví dụ
có những giải pháp giải quyết vấn đề khác nhau và đi đến sự quyết định.
Khi dùng phương pháp này người học được đưa vào một tình huống trong công việc họ
đang thực hiện với vai trò là một chủ thể hành động thực tế. Họ không chịu sự ép buộc nào, nhưng đang
đứng trước một tình thế buộc họ phải hành động và có trách nhiệm giải quyết.
Họ phải nhìn nhận toàn bộ các mối quan hệ liên quan đến tình huống và sự tạo ra
các thông tin để nắm bắt vấn đề. Song trước đó họ cũng được thông tin đầy đủ về phạm vi thực tiễn tương
ứng và những am hiểu cần hiết để đi đến những quyết định giải quyết vấn đề.
Chất liệu tạo nên tình huống phải được tạo nên từ bản chất của công việc
và việc cung cấp tài liệu phải ở tình trạng rõ ràng và dễ hiểu. Nếu có giải
thích cho người học thì phải mở ra những ý tưởng khác nhau. Những thông tin
cơ bản ban đầu phải cho người học làm quen với tình huống được khai thác. Những thông tin khó hiểu phải được
chia tách ra và giải thích cặn kẽ, rõ ràng và tạo điều kiện cho họ có thể dễ
dàng thông hiểu và xử lý được, bằng cách dùng những câu hỏi hướng dẫn và hướng
dẫn công việc để người học định hướng tiếp tục cho những vấn đề nhất định.
Để
thực hiện có hiệu quả quá trình giải quyết vấn đề, những luận điểm sau đây cần
đượcư chú ý. Aebli (1981, trang 74) đã nêu ra 13 quy tắc để giải quyết vấn đề:
1.
Lường trước được những khó khăn, chú ý đến ngôn ngữ , khái niệm
hoặc lời nói có tình huống,
2.
Nếu gặp những khó khăn trong khi hành động và trong khi
diễn ra các trạng thái xúc cảm tiêu cực
có thể sử dụng những ngôn ngữ dễ hiểu có tính chất đời thường,
3.
Mô tả vấn đề với sự trợ giúp của những phương tiện cần
thiết có thể sử dụng để đạt được sự thông hiểu bản chất của nó,
4.
Tạo ra những hiểu biết tốt nhất về những điều đã cho
thuộc phạm vi của vấn đề,
5.
Định rõ đặc điểm của vấn đề,
6.
Tìm kiếm những kiến giải đặc thù cho vấn đề,
7.
Làm sáng tỏ những câu hỏi được nêu ra,
8.
Không những chỉ đi từ cái đã biết đến cái phải tìm, mà
còn ngược lại đi từ cái phải tìm đến cái đã biết,
9.
Kiểm tra những cái đã đạt được trong cách giải quyết,
10.
Quay trở lại
cách đã giải quyết khi cần thiết,
11.
Sử dụng tất cả
những thông số có liên quan đến vấn đề,
12.
Trường hợp nếu
không thể giải quyết được những nhiệm vụ
đã đặt ra thì có thể lược lại những nhiệm vụ đã thực hiện, hoặc những nhiệm vụ
thông dụng.
13.
Nếu không giải
quyết được vấn đề, trong trờng hợp này không cần thiết lược lại toàn bộ chương
trình hành động, mà nên xem xét lại cách giải quyết vấn đề và tìm kiếm trong
những điều đã học của mình.
Phương pháp dạy học theo tình
huống được diễn ra theo các giai đoạn sau:
1.
Giai đoạn chuẩn bị: Mô tả tình huống với phương thức
tạo dựng động cơ hành động, trong đó người học được người dạy đưa vào tình
huống có vấn đề bằng phương pháp tình huống.
2.
Giai đoạn phân tích: Rút ra những vấn đề cốt lõi, trong
đó người học thuyết minh, giải thích, làm rõ các chất liệu của tình huống
(bằng kinh nghiệm và cách nhìn nhận của riêng mình).
3.
Giai đoạn định hướng hành động: Đây là giai đoạn lập
kế hoạch để giải quyết vấn đề và tìm kiếm thông tin, người học tìm kiếm những
chất liệu có liên quan đến tình huống.
4.
Giai đoạn hành động thực hiện: Giải quyết vấn đề theo
cách đã tìm ra (giải quyết lần 1). ở giai đoạn này, sau khi giải quyết vấn đề,
người học cần so sánh cách xác định vấn đề và kiểm tra lại những giải pháp đã
thực hiện.
5.
Giai đoạn đánh giá và phân tích: Đánh giá các cách giải
quyết khác nhau và đi đến quyết định cuối cùng.
Những con đường giải quyết thường
phải được cân nhắc và phải được bàn bạc trước khi đi đến sự quyết định hành
động. Sự so sánh giữa các quyết định đã được đưa ra trước khi bắt tay vào
thực hiện thường làm cho các quyết định theo sát với thực tế thì những sự
quyết định đó mới trở nên có giá trị thực tiễn cao.
Thực tiễn dạy và học cho thấy khi xử lý một tình huống nào đó cũng có
thể sử dụng phiếu hướng dẫn để làm sáng tỏ hoặc làm cải biến vấn đề, chứng
minh con đường giải quyết vấn đề. Nhưng trong trường hợp này phải chú ý đến
tính vừa sức và mức độ trí tuệ của người học.
Tóm lại, cấu trúc một tình huống
được xem xét bởi 10 vấn đề sau:
1.
Trước khi nghiên cứu một tình huống phải xác định
những gì cần đạt được, những sự kiện đơn lẻ phải được mô tả tập trung và hướng
vào những cái cơ bản then chốt của vấn đề.
2.
Những sự kiện đợn lẻ được mô tả trong tình huống phải
được người học chấp nhận giải quyết; và đồng thời họ phải biết sắp xếp những
thông tin có liên quan đến tình huống có vấn đề thành một hệ thống cấu trúc
thông tin cho riêng mình.
3.
Những thông tin không có liên quan đến phạm vi của vấn
đề cũng phải thông tin rõ cho người học biết, để họ nắm được giới hạn phạm vi
của vấn đề cần được giải quyết, và những biện pháp giới hạn vấn đề cũng phải
được tách bạch ra cho người học dễ nhận biết.
4.
Khi phác hoạ một tình huống cũng phải đặt nó vào một
quá trình, nghĩa là phải tiến hành trong một quá trình hành động và có động lực
riêng của nó.
5.
Tình huống khi được phác hoạ phải có ý nghĩa với thực
tiễn, sự sắp xếp nội dung tình huống trong thực tế nghề nghiệp không được chứa
đựng những mâu thuẫn nôị tại.
6.
Việc đề xuất tình huống phải được sử dụng những phương
tiện thích hợp và phải được dàn dựng hợp lý.
7.
Việc đề xuất tình huống phải tuân thủ những nguyên lý
chung để từ đó làm cho người học di chuyển vào những tình huống cụ thể.
8.
Việc xây dựng tình huống phải có ý nghĩa đối với người
học, phải có sức hấp dẫn đối với ngời học.
9.
Khi phác hoạ tình huống phải được ngời học hiểu rõ
ràng đích xác.
10.
Tình huống phải được trình bày cụ thể. Qua
việc cụ thể hoá phải kích thích học sinh
tư duy để họ hình thành biểu tượng cho hành động, và để họ tự tìm thấy các
con đường giải quyết tình huống.
Các phương án làm việc bằng phương pháp nghiên cứu tỡnh huống (theo
KAISER)
Phương pháp
|
Nhận biết vấn đề
|
Tỡm kiếm thụng tin
|
Giải quyết vấn đề
|
Đánh giá giải quyết vấn đề
|
Case Study Method
|
Điểm trọng tâm: các vấn đề cũn ẩn giấu cần được phân tích
|
Các thông tin được đưa ra
|
Các phương án giải quyết cần được thảo luận và dẫn tới
quyết định
|
So sánh kết quả với quyết định trong thực tế
|
Case-Problem Method
|
Vấn đề được nêu lên rừ ràng
|
Các thông tin được đưa ra
|
Điểm trọng tâm: các phương án giải quyết vấn đề được thảo
luận và quyết định
|
So sánh kết quả với quyết định trong thực tế
|
Phương pháp nghiên cứu tình huống
|
Tỡnh huống mụ tả thật đầy đủ
|
Điểm trong tâm: các thông tin tự nó được xác định
|
Thảo luận các phương án, tỡnh huống được giải quyết
|
|
Stated Problem
|
Vấn đề được nêu ra trước
|
Thông tin được đưa ra
|
Các kết quả được đưa ra, tỡm cỏc kết quả tương đồng
|
Điểm trọng tâm: đánh giá các kết quả đó biết.
|
4.3.4.7 Phương pháp dạy học theo dự án
Việc ứng dụng phương pháp dạy học theo dự án.
Phương pháp này huy động tất cả những hiểu biết và năng lực thực tế về nghề
nghiệp cần thiết của học sinh để giải quyết vấn đề thực tiễn nghề nghiệp đặt ra
cho họ. Cho nên phương pháp học tập này
nếu chỉ huy động những nội dung học tập trong các môn học thì chưa đủ mà còn phải có am hiểu và phải có kinh nghiệm
sâu rộng từ thực tế lao động sản xuất và xã hội.
Phương thức học tập này về nguyên tắc nó mở rộng
về chuyên môn nghề nghiệp.
Bởi vậy phương pháp dạy học
theo dự án liên quan đến cả phạm vi lý thuyết và thực hành. Khi giải quyết một
nhiệm vụ thực hành thì phải nghiên cứu và nắm vững những cơ sở lý luận có liên
quan.
Phương pháp dạy học theo dự án
được vận dụng trong quá trình học tập
nhằm tạo ra cho người học khả năng chế tạo ra những sản phẩm cụ thể trong giai
đoạn học tập, học tập gắn với lao động sản xuất. Trong giai đoạn này họ hoàn
toàn phải tự lực, tự điều khiển và phải có tinh thần cao trước nhiệm vụ học
tập. Họ phải tích cực tìm kiếm, tự tạo ra những cơ hội.
Trong khi đó họ cũng chưa biết
chắc về sự thành công của công việc sẽ đến mức nào? Vì quá trình này, tiến độ
của nhiệm vụ học tập cũng chưa được đánh giá thành tích học tập qua điểm số
của thầy.
Tình huống học tập như thế đòi hỏi
người học phải tự tìm lấy những phương tiện hoặc là tài liệu học tập cho mình.
Phương pháp học tập này được gọi là hình thức học tập tự nghiên cứu, khám phá,
người học ở trong tình trạng thử sai, tự rút kinh nghiệm để đi tới sự nhận
thức và năng lực sáng tạo ở họ.
Cần làm cái gì ? Cả nhóm học
tập phải cùng nhau dự tính (dự án)
|
Thuật ngữ “Dự án” luôn có nghĩa là định hướng vấn đề, có liên quan đến một
nhiệm vụ cần được giải quyết nhờ vào hệ
thống kinh nghiệm và kiến thức đã có. Nó được đặt ra với một không gian và thời
gian về một lĩnh vực chuyên môn sâu rộng.
Bởi vậy phương pháp dạy học theo dự
án có liên hệ và định hướng mạnh vào thực tế. Làm việc với phương pháp dự án
người học luôn luôn phải đối chiếu, liên hệ trực tiếp với hiện thực và bắt
nguồn từ những lĩnh vực học tập, cộng với hệ thống kinh nghiệm của mình đã tích
luỹ được.
Học tập theo phương thức cá nhân
hoá, nó đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm riêng, có sự nỗ lực riêng của mỗi
cá nhân trong quá trình học tập.
Học tập theo phương thức dự án phải
có sự hợp tác của nhiều người để cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ học tập
nhất định.
Phương thức học tập này huy động nhiều lĩnh vực như phạm vi kiến thức hiểu
biết, phạm vi thái độ và năng lực hành động (kỹ năng). Trong đó người học phải
lập kế hoạch, phải tự chỉ đạo, điều hành, tự tổ chức quản lý và tự thực hiện,
đưa đến kết quả có thể đánh giá được. Đứng trước một nhiệm vụ người ta phải
bắt đầu từ cái gì đó. Trước hết họ phải nhận ra được đề tài, nhiệm vụ cần giải
quyết.
Sau đây là những tiêu chuẩn dành
cho việc tạo lập phương pháp dạy học theo dự án:
-
Vấn
đề phải được lựa chọn hướng vào mục tiêu đào tạo trong hệ thống các nhiệm vụ
học tập đã được hoạch định và phải đưa ra được những phương án giải quyết thực
thi.
-
Người
học phải tự giác liên kết lại với nhau và sẵn sàng huy động những kiến thức, kỹ
năng hiện có của mỗi thành viên vào công việc chung thuộc dự án trên cơ sở thoả
thuận tự nguyện để đem lại lợi ích cho từng cá nhân và xã hội.
-
Người
học phải có đầy đủ ý thức để hành động nghiêm túc, họ phải hiểu được mục đích
của công việc chung, phải thống nhất trong hành động bằng những phương pháp
cộng tác, hợp tác trong mọi mặt của công việc đã được đặt ra.
Đề xuất dự án (1)
(2)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Phát triển toàn bộ lĩnh vực hoạt động .
(có thể được thực hiện việc này ở hình
thức gián tiếp )
Kết quả
= Dự thảo được kế hoạch án
|
|
|
|
|
Khả năng
kết thúc
(3)
Khả năng
kết thúc
(4)
|
|
Kết
thúc dự án (1) hoặc là phải quay lại giai đoạn đề xuất dự án (2) hoặc là
phải làm lại từ một giai đoạn nào đó trong tiến trình thực hiện dự án (3).
(
Có sự bàn bạc trực tiếp hay gián tiếp của những người tham gia hoặc có thể
biên chế những thành viên mới)
|
|
Quá trình dự án
ở giai đoạn
quyết định
(5)
và giai đoạn đối
thoại trung
gian để tìm ra
phương thức
hành động.
Hoặc là kết
thúc,
(1)
Hay là quay
lại
xem xét đề xuất
dự án (ban đầu), (3) Hoặc là tiếp tục!
Mẫu cơ bản của phương pháp dạy
học theo dự án
Mẫu cơ bản của quá trình dự án
được phân định thành các giai đoạn khác nhau (xem H. 31) được trình bày dưới
dạng sơ đồ mà nhiều tác giả cho là hợp lý, đồng thời nó làm rõ các bước đi của
quá trình dự án và quá trình của dự án là một bộ phận quan trọng của phương pháp
này.
Giai đoạn thứ nhất: Đề xuất dự án
Giai đoạn này có hai đặc điểm:
-
Tình
huống ban đầu, tình thuống mà những người
tham gia khởi thảo (một công việc mới được đề xuất qua sáng kiến của người
tham gia vào dự án – kể cả thầy và trò)
-
Người
học tự tìm kiếm những đề tài về kinh tế - xã hội mà trong đó còn có sự hiếu hụt
hoặc chưa mấy ai chú ý tới. Đi vào những khía cạnh này thì có thể còn vô số
các dự án được đề xuất hoặc phát hiện.
Tại giai đoạn này phải tìm ra được đề tài, nhiệm vụ hoặc là những kiến
nghị
|
Giai đoạn 2: Bàn bạc, trao đổi của những người tham gia dự án
Sự bàn bạc, trao đổi giữa các
thành viên tham gia vào dự án dựa trên nguyên tắc thoả thuận, trong đó các
thành viên trong nhóm bàn bạc trên cơ sở hướng vào thực hiện những nhiệm vụ
thuộc đề tài đã đặt ra. Khi bàn bạc không nhất thiết chỉ đưa ra những ý kiến
xuôi chiều, mà còn có thể cân nhắc cả những ý kiến trái ngược nhau và những
quan điểm đối nhau.
Cuối giai đoạn này dù thế nào đi
nữa cũng phải đi đến một sự kết thúc: Hoặc là, những người bàn bạc thống nhất
với nhau và đưa ra được một sơ đồ phác hoạ cho việc tiến hành công việc của dự
án, hay là quyết định chấm dứt hoạt động.
Tại giai đoạn này các công việc được sơ thảo và hoạch định, các vấn đề
được thảo ra và giá trị sử dụng (kết quả dự án) được các thành viên thống
nhất nhận định.
|
Giai đoạn 3: Dự thảo toàn bộ các lĩnh vực hoạt động thuộc dự án
Toàn bộ các hành viên thuộc nhóm
(hay cả lớp) được phân công mỗi người thực hiện một công việc nhất định, thời
gian bắt đầu và kết thúc công việc. Tất cả mọi công việc phải gán trách nhiệm
cho từng thành viên, ai làm việc gì đều phải chỉ ra thật cụ thể, rõ ràng. Đồng
thời xác định mục tiêu thực hiện cho các giai đoạn tiếp theo cũng như thực
hiện công việc để kết thúc công việc trong giai đoạn này.
Tại giai đoạn 3 này, chủ yếu người tham gia dự án phải dự thảo được một
chương trình hành động để thực hiện dự án
|
Giai đoạn thứ 4: Đẩy mạnh hoạt động trong tất cả các công việc
Đây là giai đoạn thực hiện dự án, tất
cả công việc được thực hiện theo đúng tiến độ của kế hoạch đã vạch ra. Trước
khi tiến hành, những người tham gia dự án phải ngồi lại họp bàn cụ thể sau đó
tiến hành phân công việc cho từng nhóm và từng người để thực hiện từng phần
việc.
Sau khi được phân công công việc
nhất định, các nhóm phải tự tổ chức thực hiện và như thế kế hoạch dự án biến
thành hành động cụ thể.
Tại giai đoạn này mọi thành viên phải có hiểu biết chắc chắn về công việc
trong dự án và với hiểu biết ấy họ phải tạo ra được sản phẩm.
|
Giai đoạn thứ 5: Giai đoạn kết thúc dự án
Trong giai đoạn này có thể sẩy ra 3 khả năng sau:
-
Kết
thúc công việc trong dự án chế tạo hay làm ra được sản phẩm, nghĩa là sản phẩm
được công bố.
-
Có thể phải
quay lại để xem xét việc đề xuất đề án ban đầu. Trong đó các thành viên
tham gia phải cân nhắc, so sánh tình trạng ban đầu với trạng thái kết thúc. Vấn
đề cần cân nhắc là, tại sao việc thực hiện dự án lại không diễn ra theo như dự
định.
-
Nếu chưa đạt được kết quả - chưa có sản phẩm như dự
định - họ phải huy động tất cả những kiến thức, kỹ năng, thái độ để tiếp tục
hành động nhằm đạt được sản phẩm đã hoạch định.
Kinh nghiệm và kết quả được nhìn nhận và
thông báo
|
Trong quá trình dự án có thể luôn luôn bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố:
-
Yếu tố đã được khẳng định hoặc
xác định chắc chắn và yếu tố bất ổn định. Nghĩa là có thể phải thay đổi trong
tiến trình thực hiện dự án.
Trong đó yếu tố thứ nhất đảm bảo rằng, quá
trình lập kế hoạch và thực hiện dự án không có sự biến động. Nó xảy ra theo
đúng dự kiến, nghĩa là có sự trôi chảy và thuận lợi. Toàn bộ hoạt động trong
các nhóm người học, trong khi thực hiện công việc đều đạt được mục tiêu đã đề
ra cho mình.
- Yếu tố thứ hai, thường ở tình
trạng bất ổn định. Nó biểu hiện trong tiến trình thực hiện dự án có những sự
kiện, tình huống phát sinh ngoài dự kiến của kế hoạch, đòi hỏi người tham gia
dự án phải tiếp tục phát hiện, xử lý để đề ra các phương án tiếp tục hành động
đưa dự án đến kết quả thực tế.
4.3.5.
Các phương pháp dạy học theo cấu trúc hoạt động nhận thức của học sinh
4.3.5.1. Phương pháp phân tích tổng
hợp
Phân
tích là phân chia tòan thể thành bộ phận, sự phân chia này có thể xảy ra trong
tư duy, hoặc trong thực tế. Phân tích dùng cho việc trình bày nội dung cấu tạo,
công dụng của các bộ phận máy móc, trình bày các khái niệm, quy trình công
nghệ.
Các
hoạt động gồm:
Phân
tích tòan bộ hiện tượng, đối tượng nghiên cứu. Đó là sự phân chia đối tượng
có tính thực tế hoặc trong tư duy thành
các bộ phận theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc này xuất phát từ trật tự
bên trong của đối tượng học tập. Đối với đối tượng học tập của môn học, trật tự này được xác định
bởi dòng thông tin, dòng năng lượng hoặc theo chức năng.
Phát
hiện ý nghĩa của các bộ phận và tòan thể
Phân
biệt các đặc điểm cơ bản, không cơ bản, hoặc các bộ phận theo mục tiêu đã định.
Tìm
ra mối quan hệ của các đặc điểm hoặc của
các bộ phận
Tổng
hợp các bộ phận thành tòan thể.
Nêu
kết luận
Ví
dụ: việc phân tích hệ thống điều khiển khí nén thành các bộ phận đưa tín hiệu,
xử lý tín hiệu, bộ phận điều khiển và cơ cấu chấp hành là dựa trên cơ sở trật
tự của dòng năng lượng và căn cứ vào chức năng của mỗi bộ phân đó.
Ví
dụ: dùng phương pháp phân tích trình bày cấu tạo và cách thức hoạt động của bơm
bánh răng:
Hình 16 cấu tạo của bơm bánh răng ăn
khớp ngoài
1- phân tích cấu tạo tòan thể của bơm
bánh răng thành các bộ phận: thân bơm, các bánh răng
2- Nhận biết cách thức hoạt động qua tác
dụng qua lại giữa các chi tiết theo
hình trên cơ sở của dòng vật liệu.
3- Nhận biết mối quan hệ tổng thể
Để hướng dẫn hoạt động
học tìm hiểu nguyên lý hoạt động của bơm
bánh răng ăn khớp ngoài, giáo viên sử dụng sơ đồ mô tả nguyên lý, bằng
phuơng pháp phân tích tách quá trình thành các trạng thái, phân tích đặc điểm
của áp suất của các vùng A,B trong bơm tạo áp lực đẩy dầu từ khoang A tới
khoang B qua các rãnh răng ăn khớp.
Trong dạy học kỹ thuật, hệ thống kỹ
thuật không chỉ là đối tượng của lĩnh hội mà còn là phương pháp để biểu diễn, mô tả các đối tượng
kỹ thuật như vậy nó còn là cách thức để tiếp cận nội dung. Do vậy khi mô tả các
đối tượng kỹ thuật cần theo quan điểm phân tích hệ thống và tòan diện. Sự thiếu
hụt các bộ phân của hệ thống trong việc mô tả sẽ dẫn đến một cách nhìn về đối
tượng kỹ thuật không được hòan chỉnh, gây khó khăn trong thiết kế, hoặc đưa ra
các quy trình, quy phạm để sử dụng các đối tượng kỹ thuật.
Việc
phân tích các hệ thống kỹ thuật có thể căn cứ vào cấu trúc của hệ thống đó là
cấu trúc theo chức năng và cấu trúc theo cấu tạo lắp ráp.
4.3.5.2.Sử dụng phương pháp quy nạp
Quy
nạp là đi từ từng trường hợp điển hình tới cái khái quát. Ở phương pháp này ,
sau khi phân tích và tổng hợp từng trường hợp riêng, phát hiện điểm đặc biệt và kết luận quy nạp để đi tới
khái quát hóa. Vì các kết luận quy nạp có tính gần đúng, vì vậy cần có sự kiểm
tra. Quy nạp được dùng để trình bày các khái niệm, nguyên lý, công thức kỹ
thuật.
Phương pháp quy nạp gồm có các hoạt
động sau đây:
Phân
tích từng trường hợp riêng, phát hiện ra các tính chất và quan hệ của nó.
Tổng
hợp các đặc tính điển hình (thực hiện đánh giá có định tính và định lượng).
Khái
quát hóa các thuộc tính đặc trưng- thông
qua kết luận quy nạp, các đặc điểm đặc trưng và các mối quan hệ được
khái quát hóa thành định luật, quy luật hoặc công thức.
Kiểm
chứng đúng sai về các điều tổng quát hóa, đưa ra ứng dụng về các điều tổng quát
này.
Phương
pháp quy nạp được ứng dụng nhiều vào việc phân tích các dữ liệu thí nghiệm, từ
đó tìm ra các quy luật chung của các sự
vật, hiện tượng cùng loại. Ví dụ: phân tích dữ liệu, vẽ đường đặc tính của bơm
hoặc van tràn.
Ví dụ về sử dụng phương pháp quy nạp:
Nghiên cứu định luật HOOKS biến dạng đàn hồi của kim
loại.
1.Phân
tích các kết quả thí nghiệm kéo kim loại
C 45w C60w
F/N l/mm F/N l/mm
7,2 0,25 7,3 0,045
15,1 0,25 15,3 0,09
24,0 0,75 19,3 0,11
30,1 0,98 21,5 0,13
Tổng hợp các kết quả thông qua tính tóan ứng suất, độ dãn dài
và mô tả bằng đồ thị.
Hình 17:đồ thị biến dạng đàn hồi của kim loại
4.3.5.3. Sử dụng phương pháp diễn dịch
Ngược lại với phương pháp quy nạp, con đường nhận thức của
phương pháp này đi từ cái chung đến cái đặc biệt hoặc cái riêng lẻ. Hình thức
kết luận đặc trưng bởi từ các tiên đề đã biết đã được kiểm chứng không có mâu
thuẫn rút ra các kết luận đúng, do vậy không cần phải kiểm tra kết luận.
Hoạt động học tập bao gồm các bước sau:
Tìm kiếm các tiên đề đã được chứng minh về tính khách quan,
tính đúng đắn là tiền đề ban đầu cho các
chuỗi suy luận sau này.
Lập trình tự các chuỗi suy luận ( theo trình tự) sao cho kết
luận của suy diễn này là tiền đề của suy luận kia.
Cụ thể hóa các kiến thức vừa thu lượm được
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng để trình bày khái niệm, quy luật, các
công thức xuất phát từ các tiền đề học sinh quen biết. Ví dụ trong việc nghiên
cứu các phương trình dòng chảy, phương trình Berluni.
Ví dụ: sử dụng phương pháp diễn dịch chứng minh trong mạch
điện mắc nối tiếp các điện trở, điện trở tổng bằng tổng các điện trở mắc trong
mạch.
Bước
1: Nêu các tiên đề đã được kiểm chứng về tính đúng đắn, tính khách quan
Theo
định luật ôm ta có: U= R. I
Trong
đoạn mạch mắc nối tiếp thì:
U= U1+ U2+ U3+ U4…+Un
I1= 2=I2 =I3 =I4
Bước
2: thành lập chuỗi các liên hệ mới từ các tiền đề cho trước
Từ
định luật ôm áp dụng cho đoạn mạch này ta có
U t = R1.I1 + R2.I2 + R3.I3 + R4.I4 +…..
R.I = I( R1+ R2+ R3+ R4+….Rn)
Bước 3: Kết luận
Do số điện trở được chọn ngẫu nhiên
nên cuối cùng có Rt= R1+ R2+R3+ R4…+Rn
4.3.5.4. Sử dụng phương pháp phát triển vấn đề
Ở phương pháp
này tư duy theo sự phát triển của xã hội, các sự kiện của đối tượng học tập
được phân tích và tổng hợp theo trình tự lịch sử thời gian, trên cơ sở này để
nhận biết sự phát triển của lịch sử.
Hoạt động học tập gồm:
·
Phân
tích đối tượng học tập dưới hình thức các sự kiện lịch sử cụ thể
·
Phát
triển các yếu tố ảnh hưởng trong mỗi tình huống lịch sử
·
So
sánh à đánh giá mức độ phát triển của mỗi tình huống
·
Rút
ra kết luận chung
Phương pháp này đặc biệt
được sử dụng để trình bày sự phát triển của các đối tượng kỹ thuật, các hệ
thống kỹ thuật trong các nhà máy.
4.4
Lựa chọn phương pháp dạy- học
Sử dụng
phương pháp nào là câu hỏi thường xuyên
của mỗi giáo viên. Sự lựa chọn cảm tính mò mẫm không đem lại kết quả chắc chắn. Cần giải quyết vấn đề này trên cơ sở
khoa học. Chỉ trong điều kiện đó mới đem lại hiệu quả cao.
Lựa chọn
phương pháp dạy học bắt đầu từ việc xác định đặc điểm, khả năng của mỗi phương
pháp dạy học.Các phương pháp thuyết trình có thể truyền đạt lượng thông tin
lớn, phát triển tư duy trừu tượng cho học sinh nhưng lĩnh hội khó. Các phương
pháp trực quan có thể nâng cao hiệu quả học tập , phát triển tư duy hình tượng
nhờ vào các biểu tượng cụ thể thông qua các phương tiện dạy học, tuy nhiên tốn
thời gian chuẩn bị. Các phương pháp thực hành chủ yếu với mục tiêu hình thành
kỹ năng kỹ xảo, cũng cố mối liên hệ giữa lý thuyết với thực hành, học sinh hứng
thú nhớ lâu, hạn chế là cần nhiều thời gian chuẩn bị. Các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học bằng tình huống, nêu và giải quyết vấn đề có thể phát huy
tính tích cực, tự lực của người học, phát triển năng lực nhận thức,; người học
học nội dung học phương pháp tư duy,tuy nhiên đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, và
khả năng sư phạm của giáo viên.
Lựa chọn
phương pháp phải căn cứ vào đặc điểm của nội dung môn học, bài giảng. Những nội
dung giàu tính hình tượng như: cấu tạo, thao tác, quy trình có thể chọn các
phương pháp giảng thuật, hoặc đàm thoại kết hợp với hướng dẫn quan sát. Những
nội dung trừu tượng như khái niệm, nguyên lý nên lựa chọn các phương pháp giảng
giải hoặc đàm thoại….v.kết
hợp với hướng dẫ học sinh quan sát..
Mặt khác
cần phải phân tích khả năng của phương
pháp tương ứng với các nhiệm vụ dạy học. Đó là nhiệm vụ truyền đạt tài liệu
mới, nhiệm vụ kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo hay nhiệm vụ nhiệm
vụ là hệ thống khái quát hóa. Kinh nghiệm cho thấy nhiệm vụ dạy học và cấu trúc
logic tiến trình của bài giảng cũng chi phối việc lựa chọn và sử dụng phương
pháp dạy học.
Sử dụng phương pháp dạy học còn cần chú ý tới mục tiêu học
tập. Với mỗi miền mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ cho thấy có phương pháp dạy học hiệu quả. Ví
dụ mục tiêu kiến thức, tư tưởng có thể
chọn các phương pháp thuyết trình, đàm thoại; với mục tiêu kỹ năng thì nê chọn
các phương pháp luyện tập, thí nghiệm, bốn giai đoạn..vv.
Lựa chọn phương pháp dạy học phải chú ý tới đặc điểm của
học sinh, năng lục của giáo viên và tình hình thiết bị của trường.
Cũng cần lưu ý ở mỗi tình huống dạy học, phương pháp dạy học không tồn tại
riêng lẻ. Để thực hiện mục tiêu học tập căn cứ vào nội dung phương pháp dạy và
học bao giờ cũng thể hiện ở dạng tổ hợp, hơn nữa lại có thể có nhiều cách thức
quyết định khác nhau tùy thuộc vào kinh nghiệm của giáo viên.
Câu hỏi ôn tập chương
4.
1. Phương pháp và phương pháp dạy- học được
hiểu như thế nào?
2.
Phân biệt giữa giảng thuật, giảng giải và giảng diễn?
Những nội dung dạy học như thế nào thì dùng giảng thuật, giảng diễn, giảng
giải?
3.
Nêu sự khác nhau giữa đàm thoại tái hiện và đàm thoại
tìm kiếm? Cho ví dụ minh họa
4. Hãy
trình bày nội dung phương pháp dạy học làm mẫu? Cho ví dụ theo nghề đào tạo?
5. Nội dung PPDH, nêu và giải quyết vấn đề?
6. Các bước của phương pháp bốn giai đoạn,
phương pháp làm mẫu. Cho ví dụ vận dụng.