Hưng Yên, tháng 5 năm 2013
Con thuyền tròng trành, tròng trành rời
mạn tàu. Người lái đò tháo sợi xích khỏi chiếc cọc ở mũi thuyền, với tay đẩy
cho con đò tách khỏi mạn tàu, rồi chạy vội cầm lái, lái con thuyền theo dòng nước
chếch vào bến. Con tàu cất hồi còi dài tu….tu…tut..tút chào bến, chạy nhanh dần
về xuôi, tiếng động cơ tăng tốc nổ sình sịch ròn giã, khói đen phụt ra, cuộn lên từ ống khói tạo
thành một dải mây bốc lên lơ lửng trên bầu trời. Nước cuộn sủi bọt ở phía đuôi
tàu. Tiếng còi tàu tu…tu….hut..tut vang vọng trên sông nước mênh mang thúc vào lòng người, gây
những cảm xúc da diết nhớ nhung man mác.
Tiếng động cơ của con thuyền cũng cất lên ròn giã, thuyền rung lên như có ai đó
rung lắc, rồi từ từ ngược dòng về bến.
Trên thuyền phần lớn là khách buôn chuyến, người đứng, người ngồi trong
khoang, trên mũi thuyền thậm chí trong khoang khoang lái. Họ ăn vận đủ kiểu khác
nhau……
Giờ đang dịp cuối thu song nước sông
vẫn đục màu phù xa, nước vỗ nhẹ mạn thuyền lọp bọp, lọp bọp….Thuyền giảm tốc độ,
mũi thuyền trồ lên trên bãi cát thoải, rung lắc rồi cặp bến. Có khách nói: hết
tiền, xuống đò thôi. Người lái thuyền nhanh nhẹn nhảy xuống bãi, cầm mỏ neo chạy
vội lên bờ một đoạn xa, neo thuyền .
Trong đám hành khách đó, có một người
đàn ông độ tuổi ngoài bảy mươi, mặc chiếc
áo bằng vải phin màu xanh, quần ka ki
màu rêu, vóc người cao lớn, lưng hơi gù, khuôn mặt trái xoan gồ ghề những nếp nhăn, da ngăm đen, ánh mắt hiền từ, đôi lông mày rậm, đó là bác Dương. Bác Dương
vừa kết thúc hành trình vài ba ngày vào tận Quảng Trị, nay trở về. Đây là lần
thứ tư, thứ năm gì đó bác Dương về tìm lại
người thân, lênh đênh ngày đêm trong toa tàu thống nhất từ ga Hàng cỏ tới Đông
Hà… rồi bắt xe đò về xã D-L, ở đó đôi ngày tìm kiếm thông tin về người thân
song không ai biết Bác Thắm, chú Tám thuộc dòng họ Mai. Làng xã giờ là những
khuôn mặt mới, phần lớn là người nơi khác đến lập nghiệp. Buồn bã bác Dương ngồi
dưới gốc cây ven con đường làng, nhìn cát trắng, những cồn cát trắng đến nao
lòng dựng cao như ngọn đồi, tiếp đến là dải cát thoải trải rộng mênh mông với
những hàng phi lao xanh xanh, xa hơn nữa là biển xanh màu ngọc bích. Hơn năm chục
năm đã qua có bao giờ bác quên hình ảnh cồn cát trắng ở quê, những chiếc mủng
nan tròn trám nhựa đường đen kịt. Ngày trước cha vẫn ra khơi vào lộng đánh cá bằng
chiếc mủng đó. Biển xanh rộng đến không cùng và những người dân nơi đây từ bao
đời nay chủ yếu với chiếc mủng tròng trành, tròng trành trên biển rộng. Đây là
những hình ảnh đậm nét trong ký ức của bác. Sau mấy ngày tàu xe, nay trông bác
có vẻ mệt mỏi. Bác xách chiếc túi vải xanh, theo con đường nhỏ xuyên qua cánh
ngô về nhà.
Trông bác Dương không ai nghĩ bác có
thời đã từng là trưởng phòng, thư ký công đoàn ngành ngoại thương của một tỉnh
vì khuôn mặt hiền khô, phong cách chân thành giản dị và mộc mạc. Ngần ấy năm,
giọng bác vẫn lơ lớ trầm đục đặc trưng của đàn ông Quảng Trị, nghe giọng nói đã
có thể đoán được tương đối chính xác gốc quê. Chuyện về bác Dương nhiều lắm
song tôi chỉ dám cắt lấy một phần rất nhỏ trong hành trình của bác để kể ra
đây.
Bác Dương vốn người Quảng trị. Ông bà
thân sinh ra bác mất trong những năm kháng chiến chín năm chống pháp, lúc đó cậu
bé Dương mới độ năm tuổi.Vào một sáng, khi cậu bé Dương cùng chị Thắm chơi đùa bên thềm
nhà, bỗng nghe tiếng máy bay ù ù..ù ù. Chiếc
máy bay bà già nặng nề đen như một con quạ bay qua làng rồi vòng lại. Trong một
thoáng cả làng im lặng, không còn tiếng xôn xao
từ đầu làng đến cuối làng, không còn tiếng trẻ nhỏ, không còn tiếng chim
hót, tiếng gió. Không gian im lặng đầy sợ hãi và chết chóc. Mọi người tìm chỗ nấp.
Chị Thắm túm hai em đẩy vào gầm chiếc chõng nan. Tiếng bom nổ, dội chát
chúa ùng…oàng…oàng như xé nát không gian. Đất trời như bị rung lắc. Tiếng bom dội
đi rất xa, rất xa đến tận mấy xã bên ùng oàng….oàng, dội lại ùng…oàng. Và rồi cả
làng nhốn nháo, mọi người chạy đến chỗ bom vừa nổ. Có ai đó kêu lên: Pháp
ném bom vào làng rồi! Bớ bà con.. Bà con ơi ! Bố mẹ bác mất vào cái buổi
sáng đó. Ngày ấy cậu bé Dương không lưu giữ được bao nhiêu hình ảnh của cha của
mẹ, cũng chẳng ý thức được về cái chết. Mọi người quấn lên đầu cậu chiếc khăn
trắng, đưa cậu đến đứng trước hương án. Mọi người nói bố mẹ cậu đi tới một
nơi nào đó rất xa, rất xa. Điều cậu cảm nhận được ngay sau đó là sự trống
vắng, cô đơn khi căn nhà không còn cha mẹ. Mấy chị em bơ vơ, ngơ ngác như chim non mất tổ.
Chị Thắm đi ở đợ lấy gạo nuôi các em. Bé
Dương được một người bà con trong xã đón về nuôi, ngày ngày chăn trâu, cắt cỏ. Chiến
tranh ác liệt, giặc càn đi càn lại, người dân trong xã tứ tán khắp nơi, người
vào du kích, người vào bộ đội, người chạy vào khu trong. Mấy chị em mỗi
người một nơi, không có tin tức gì về
nhau cho tới ngày nay.
Hơn mười tuổi cậu bé Dương đã vào
du kích, làm giao liên, sau đó vào những năm đầu 60 thuộc thế kỷ trước, vào
quân đội, tham gia nhiều trận đánh, chống
càn, rồi công đồn ở G-L……Trong một trận chống càn, “bác” bị thương , sau đó được
đưa ra bắc chữa trị và an dưỡng. Đó chính là lý do dẫn đến việc bác quen biết
bá tôi ở H-Y. Đất lành chim đậu, bác lấy bá tôi rồi ở lại lập nghiệp ngoài bắc.
Hoàn cảnh bá tôi cũng éo le. Quê tôi
thời chín năm kháng chiến chống pháp bị lính
Lê Dương càn đi, càn lại. Mỗi trận càn, khi nghe tiếng nổ đầu nòng của đạn pháo từ mạn Lực điền..tăng…xình…tăng..xình…xình…và tiếng ca nô chạy ngược dòng, người già, người
lớn, trẻ con bìu ríu gồng gồng, gánh gánh theo con đê dọc sông đào chạy loạn.
Đoàn người gày yếu, trong những bộ đồ nâu bạc thếch vá vai, vá lưng, cùng với
những con chó chạy lăng xăng quấn chân chủ
vào tận trong Si lánh nạn, hết
càn lại bìu ríu về quê. Có gia đình phải dựng lại nhà trên đống tro rạ vẫn còn
ngún bốc khói. Bá bị thất lạc trong một lần chạy loạn. Một người ở bãi Phúc xá,
nhặt được bá tôi ở chợ Si. Lúc đó đã chiều
tàn, bá tôi ngồi khóc dưới cái lều lợp tạm bằng lá chuối, quần áo vá chằng, vá
đụp, mặt mũi lem nhem đầy đất cát trong nỗi hoảng sợ đến không cùng. Bá
tôi đã làm con trong gia đình đó mãi tới
đầu những năm 60 mới tìm được mẹ đẻ. Âu cũng là duyên trời xui khiến.
Ông thân sinh bá tôi vốn làm nghề hương sư, sau vào bộ đội.
Vào một buổi tối, từ đơn vị về nhà trước
khi lên chiến khu Tây bắc để học quân sự, Ông về nhà thăm bà tôi. Ông khom người men theo triền đê, ẩn mình
trong đám cây chuối trong vườn khẽ gọi giọng tha thiết: mình …minh…mình
…ơi. Đã lâu lắm rồi không về thăm vợ con nên trong lòng ông xốn xang chờ đợi giây
phút gặp mặt, ông sẽ ôm chặt lấy bà mà thương, mà nhớ ,chia sẻ với bà những khó
khăn của cảnh gà mái nuôi con; sẽ nhìn
ngắm lũ trẻ cho thỏa nỗi nhớ thương của người cha. Ông cất tiếng gọi khẽ giọng
lạc đi: Mình ơi! Mình ơi! Mình! Ai đấy?- Bà tôi bật dạy hỏi. Là tôi đây! Tôi đây mà- Ông tôi nói khẽ giọng
chùng xuống. Bà tôi vui mừng vùng dậy,
chưa kịp mở cửa đã nghe tiếng huyên náo. Tụi lính dưới đồn Chiêm theo chỉ điểm
đã vây kín các ngõ. Ông tôi vùng chạy ra mé bờ sông song không thoát được vây.
Giặc pháp nhốt ông tôi trong đồn. Không khai thác được điều gì, chúng bắn, cho
xác ông vào bao bố thả trôi sông. Vậy là bà tôi một mình nuôi dăm sau đứa con,
trong đó có bá.
Lúc rảnh bà tôi thường kể
chuyện ngày xưa bằng giọng chậm rãi, cốt chuyện ngắn gọn. Bà bảo ngày
xưa nhiều cướp, đôi khi cướp lại chính là các vị chức sắc trong
làng. Bà cũng sớm phải đi ở đợ cho địa chủ. Gần làng có vài cái
bốt, lính tây thường vào làng bắt bớ việt minh và hãm hiếp phụ nữ.
Bà nói ngày xưa các cụ quyệt nhám vào mặt bà vì sợ nhiều người dòm ngó, đặc
biệt là đám lính da đen dưới bốt Chiêm.
Lúc bá tôi độ tuổi mười bảy, mười
tám, giống bà tôi ngày xưa xinh lắm, khuôn mặt trái xoan, nước da trắng mịn,
hai má ửng đỏ, cái mũi dọc dừa, cánh mũi gọn nhỏ thanh tú, đôi môi cũng mọng đỏ
và đôi mắt vừa trong vừa sáng như thoảng nỗi buồn. Trai trong làng nhiều người
đem lòng yêu, tối đến cổng nhà huýt sáo tán tỉnh, nhưng bá tôi chẳng ưng
ai. Bà tôi bảo nuôi con gái đến tuổi dựng vợ gả chồng lo lắng lắm, như có quả
bom nổ chậm trong nhà. Đời người con gái như hạt mưa sa, rơi vào sông thì sướng,
rơi vào đám cứt trâu coi như khổ cả đời. Con đồng ý lấy ai, mẹ cho người ta,
yên chuyện.
Thực lòng bá tôi đã đem lòng yêu bác
tôi. Bấy giờ trạm thương binh nằm ở xã.
Bác Dương theo học văn hóa ở trường thương binh. Đoàn trường thương binh kết
nghĩa và giúp đỡ đoàn xã thế là họ quen nhau. Bác Dương vốn thổi sáo và hát hay
lại là bộ đội cụ Hồ nên được thanh niên làng mến mộ. Thời ấy bộ đội đối với con
mắt của nhiều tầng lớp xã hội như một thần tượng đẹp đẽ mang chất lý tưởng. Bác
Dương trong nỗi phập phồng sợ hãi cho đến lúc rời trường thương binh để đi học
chuyên nghiệp mới dám ngỏ lời. Và nếu như không có bạn bè khích lệ có lẽ không
dám ngỏ tình yêu. Bác bảo với người bạn cùng phòng: liệu cô ấy có ưng tôi
không?Tôi đen đúa vụng về, quê xa. Cô ấy xinh xắn nết na thế. Ông bảo cô ấy có
cảm tình với tôi ư? Sao tôi không biết nhỉ? Thường ngày cô ấy trêu cợt tôi, có lúc lãnh đạm nữa. Người bạn cùng
phòng nói: rõ là ngốc ngếch. Người ta là con gái có muốn đến chết, có đắm say
cũng giữ kín kẽ. Cô ấy biết tin ông chuẩn bị đi rất buồn đó. Thế là sau một
thoáng ngập ngừng, bác Dương chạy như bay đến với bá. Bá đang đứng bên rào
râm bụt, lo lắng và đau khổ, thấy bác Dương tới, chạy vội vào nhà………không biết
họ nói gì với nhau, lúc sau cả hai đều thổn thức…hình như cơn khát đã được giải
tỏa phần nào. Bá tôi nói: anh cứ đi học, em chờ! Hay tin bà tôi nói với mọi
người: con bé quá dại dột, kiếm đâu không được tấm chồng tử tế, người
gần đây thiếu gì, lại đi yêu cái thằng quê xa tít tắp như thế. Ngộ
nhỡ nó lấy nhau, thằng Dương đem con bé tuốt vô Nam thì tính sao? phải ngăn nó đi kẻo muộn! Bà tôi thở dài nói: tôi buồn nẫu cả người,
nhưng ngăn trở chúng bằng cách nào bây giờ. Lũ trẻ có như ngày xưa
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Bà tôi bắn tiếng gả bá cho một người
làng bên, vốn đôi bên gia đình có quan hệ thân thiết với nhau. Bá tôi
khăng khăng không chịu, nhất quyết đòi lấy bá Dương, nếu không sẽ ở
vậy. Bà tôi sợ bá thành bà cô ông mãnh nên thôi không gán ghép dù
trong lòng rất buồn.
Thời gian sau đó bác Dương quay lại
trại an dưỡng nhờ đơn vị và địa phương vận
động bà tôi rồi tổ chức cưới. Thế là bác bá nên vợ nên chồng.
Chuyện về bác bá thực ra có thể dừng lại ở đây, song tôi cứ
băn khoăn có thể mọi người muốn biết cuộc sống của bác bá tôi sau này thế nào,
nên đành viết tiếp.
Bác Dương học chuyên nghiệp xong trở
về tỉnh H- Y công tác ở sở ngoại thương, chuyên thu mua lâm hải sản, sơ chế xuất
khẩu..vv. làm đến chức trưởng phòng ngoại thương , trưởng công đoàn ngành. Ngày
đó, mỗi lần xuống địa bàn, bác dùng cái xe trâu (tên một loại xe đạp do
Trung Quốc sản xuẩt), đạp xe dưới trời nắng chang chang chừng vài chục cây số,
mệt mỏi nhưng vui, hưng phấn có được từ sự chân thành của mọi người khi đón tiếp,
từ lạc quan vì mục tiêu chung; có người biếu vài cân tôm, chọn những con cá trắm
đen nặng vài ký gọi là biếu cán bộ, bác đều từ chối, hoặc trả khéo. Có lần vào
ngày nghỉ, khách thăm mua quà biếu, bác chối từ không nhận, đôi bên giằng co
gói quà. Bá tôi trách: sao ông nỡ xử với người ta như thế. Có gì đáng giá đâu,
chẳng qua là cân đường, hộp sữa, gói mì chính. Đến chơi với gia đình là tình cảm của người ta, sao ông không nhận.
Bác nói: tình cảm sao tôi lại không nhận. Ở cơ quan sao tôi không hiểu họ. Những
gì có thể giúp được đồng nghiệp, tôi không từ chối. Nhưng phần nhiều người đời có
cho không bao giờ. Đấy chính là điều tôi băn khoăn không muốn nhận. Cuộc đời
này sòng phẳng lắm, nên biết công mình đến đâu nhận đến đấy. Vả lại các con
nghĩ thế nào, chẳng nhẽ chúng không biết suy xét sao. Hãy để chúng thấy bố mẹ
dù nghèo nhưng giấy rách giữ lề, trọng khí tiết, liêm chính để sống.
Bác bá tôi được dăm con, bốn con gái,
cố mãi mới được cậu út nên đặt tên là Nam. Mấy chị em gái hơn chục tuổi đầu đã
đi làm hợp tác, vừa học vừa làm tự nuôi
mình, vào những vụ đông, sắn quần lội ruộng nhặt những giẻ thóc còn sót trên những
gốc rạ mủn ngập nước, có buổi dầm mình trong nước lạnh mò hến, gạt những cánh
bèo sen, vớt những con ốc nhồi đóng màng trắng miệng nổi lềnh bềnh trên mặt nước,
có buổi ra bến gánh cát từ thuyền lên bãi. Tối đến sau cả buổi bước xuống
thuyền, trên vai nặng trĩu gánh cát bấm chân bước lên bến, đổ cát vào đống, vai
lưng mỏi nhừ, mấy chị em cùng lũ bạn như những cô tiên đứa ôm cây chuối, đứa lấy
quần làm phao bơi, vùng vẫy trong làn nước. Nước sông mát rượi vuốt ve cơ thể họ,
tiêu tan nỗi mệt nhọc thường ngày.
Trong mấy chị em, chị cả Kiêm sớm dừng học, đi làm, phụ mẹ
nuôi mấy em ăn học. Mấy em sau đều học hành đỗ đạt hiện làm việc trong các cơ
quan nhà nước.
Giờ ở quê chỉ còn Bác Bá, tuổi già nương tựa lẫn nhau mỗi khi
đau yếu trở trời. Lúc có tâm sự, bác hay nói: ngày xưa tôi không đỡ đần cho bà được nhiều, nay đây mai đó bận
toàn việc công, nay muốn bù đỡ bà song cũng chẳng làm được điều gì. Bà đã cho
tôi, hy sinh cho tôi quá nhiều. Bá tôi cười nói: ông cứ khỏe mạnh bên tôi là được
rồi. Thực ra Bá muốn nói nhiều lắm, nhưng không thể diễn tả nổi. Ngày trước một mình với đàn con, bao vất vả cho ông ấy
yên lòng đi công tác, lắm lúc cũng cực, cũng tủi thân lắm nhưng Bá chưa một câu
than vãn. Niềm vui của Bá là những đứa con, chúng xinh xắn như tiên đồng mang lại
cho Bá bao cảm hứng và niềm vui sống.
Gần hai chục năm sau ngày đất nước thống
nhất, bỗng có tin tìm người thân trên ti vi. Bác tôi mừng lắm, mất ăn mất ngủ
vài ngày liền, nỗi mong mỏi được gặp người thân và niềm vui về sự đoàn tụ đến thật
bất ngờ. Suốt ngày bác Dương nhắc đến chị gái và em trai, trong tâm trí của bác
bỗng dưng sống lại tràn đầy những kỷ niệm với chị, với em thời thơ ấu, khuôn mặt
bác rạng rỡ niềm vui và cái miệng lúc nào cũng thường trực nụ cười. Bá tôi cũng
vui, nói: tôi chuẩn bị ít tiền cho ông vào Sài Gòn . Ông vào đó nhớ mời bác và
các cháu ra ngoài này chơi vài ngày. Mấy chị em con Bác Bá khuyên bác nên đi
máy bay, nhưng bác Dương thích đi tàu thống nhất. Bác nói: đi tàu để ngắm cảnh,
vả lại có thể xuống ga Đông Hà rồi về quê ít ngày trước khi vào Sài Gòn. Gia
đình bác Thắm đón bác Dương ở sân ga. Mấy
chục năm xa cách, biết bao những đổi thay, vậy mà họ vẫn nhận ra nhau, mừng mừng
tủi tủi, chuyện liên miên không dứt mấy ngày liền. Xen với niềm vui khôn tả là
nỗi đau, bác Thắm nói mà nước mắt chảy nhạt nhòa trên mi: chú Tám hy sinh năm 72 ở Quảng trị. Cậu cứ ở đây vài
ngày, chị em mình sẽ về quê thăm mộ chú ấy. Anh chị vào đây sau năm 75. Anh rể
cậu cũng từng mấy chục năm trong quân đội. Các cháu cậu trai gái hiện đều phục
vụ quân đội. Cháu Hưng hiện là cán bộ của trường Trần Đại Nghĩa; cháu Hà, Cháu
Thọ là cán bộ kỹ thuật của quân đoàn; cháu Liên làm ở tổng cục hậu cần hiện ở
Hà Nội… Nhà tôi như vậy có nửa tiểu đội rồi. Bác Thắm thuê xe, cả gia đình cùng
bác Dương đi thăm quan thành phố sau mấy chục năm giải phóng.
Bác Dương ở lại Sài gòn ít ngày, sau
mới ra bắc. Lúc rảnh, bác tôi thường hay ngồi bên gềnh. Nước sông đoạn chảy qua đầu gềnh sôi réo, cuốn, cuộn xoay tròn những phiến lá
cây, nhấn chìm nó vào dòng. Nhìn dòng
sông Hồng lại nhớ đến dòng Hiền lương nước xanh ngắt yên bình, ngắm những con
thuyền sực liên tưởng đến đời người và các bến đợi …… Tháng 5 năm 2013
Hồ
Ngọc Vinh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét